Năm 1289, trong bài thơ tặng Lý Tư Diễn, sứ thần Nguyên Mông, Trần Nhân Tông viết: “Tịch hiệp thiên hà tẩy chiến trần” (kéo cả dải ngân hà về để rửa sạch mọi oán hờn, khổ đau và mâu thuẫn từ chiến tranh). Có lẽ đây là câu thơ hay nhất, đúng nhất đối với “tâm trạng của một dân tộc” mà hàng ngàn năm qua, thời gian lầm than, tiến hành chiến chinh giữ nước bao giờ cũng dài lâu hơn gấp bội phần lịch sử dựng nước.
Không ăn mừng trên nỗi đau của người thua trận
Câu chuyện đáng bàn thứ nhất là việc Trần Nhân Tông tha hết những kẻ hàng giặc bằng cách cho đốt hết mọi lá thư đầu hàng Nguyên Mông để xoá bỏ nghi kị, lo sợ. Không ít ý kiến băn khoăn rằng làm như thế có khác gì tha hết cho mọi điều giả trá, làm sao phân định nổi đúng sai?
Nói cách khác, cách làm của Trần Nhân Tông đã xoá nhoà mọi sự trắng đen khiến cho người ngay phiền lòng, kẻ gian dối nhát hèn mừng rỡ! Uẩn khúc này suốt 700 năm qua luôn là một trong những đầu mối của thị phi, nhức nhối.
Chúng ta đồng tình với vế thứ nhất của sự băn khoăn đó của lịch sử. Nhưng còn vế thứ hai, thứ ba liên quan đến chiến cuộc, thế thời, lòng người là điều nên hiểu và phân tích một cách kỹ càng.
Ai cũng biết chiến tranh luôn là “kẻ tội đồ” của một dân tộc bởi nó đảo lộn mọi giá trị, nó có thể dìm chết cả một hệ thống hoặc phức thể nhân cách trong những phút giây yếu đuối, ngã lòng; thậm chí, nó có thể tàn hại nhiều cuộc đời một cách tàn nhẫn.
Thêm nữa, Trần Nhân Tông đã làm cái việc ít ai làm nên mong muốn đồng thuận là điều cực khó. Số người đã hành xử như Trần Nhân Tông trong lịch sử chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Xin đưa ra một dẫn chứng.
Tháng 4/1863, trận chiến khủng khiếp ở Gettysburg trong cuộc nội chiến của Mỹ (1861 – 1865) đã làm chết 7.000 người của cả hai phe cách mạng và phản cách mạng.
Tổng thống Abraham Lincohn đã làm điều chưa hề có tiền lệ trong lịch sử là cho chiêu tập thi hài của cả hai phe để xây dựng thành Nghĩa trang Quốc gia.
Tháng 6/1863, A. Lincohn đã đọc bài diễn văn khánh thành nghĩa trang nổi tiếng: “Chúng ta có mặt ở đây để đoan quyết rằng cái chết không bao giờ là vô ích; rằng dân tộc này, ơn Chúa, sẽ hồi sinh bởi tự do; rằng sẽ có một chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ tồn tại mãi mãi trên trái đất này”.
Xét về nghĩa tổng thể của lịch sử nhân loại, hành động của Tổng Thống Mỹ chỉ là tiếp nối điều mà Trần Nhân Tông đã làm, 600 năm sau!
Tổng thống Mỹ đã tha thứ cho tất cả mọi lỗi lầm của những kẻ lầm lạc bởi ông biết đó là cách tốt nhất để xoá bỏ chia rẽ hận thù, hàn gắn những vết thương chiến tranh để cho nỗi đau của dân tộc mau lành, vì mục tiêu thống nhất, mạnh giàu.
Quan niệm đó sẽ còn được Lincohn tiếp tục khi 20 vạn tù binh miền nam đầu hàng đã được ông tha bổng và không cho binh sĩ tổ chức ăn mừng chiến thắng bởi: “Những người bại trận là đồng bào của chúng ta đó”. Tổng tư lệnh quân đội miền bắc, tướng Ulysses S. Grant đã nói với binh lính như thế khi họ đòi phải nổ đại bác để ăn mừng.
Cách nhau 600 năm sống, nửa vòng trái đất, tại sao Trần Nhân Tông và Tổng thống Mỹ lại tìm được sự “đồng cảm” mà 5.000 năm lịch sử điêu tàn lẫn vinh quang của nhân loại không còn ai dám hành động tương tự?
Phải chăng khi chúng ta phê phán, ta đã xem xét trái tim của các bậc vĩ nhân bằng cách nghĩ cạn nông và thiển cận của chính mình? Cả Trần Nhân Tông và Lincohn đều biết rất rõ rằng không thể nào xoá tan được mây đen của hận thù nếu người chiến thắng cứ “sỉ nhục” kẻ chiến bại theo cách này hay cách khác.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Thằng ngốc” của Dostoievski, nhân vật chính chỉ trở thành kẻ ngu ngốc khi cứ cố tình nhìn thấy sai lầm của người khác – một tiểu thư con nhà quyền quý làm đổ ly nước trà, vấy bẩn khăn bàn.
Xem ra, dù là làm đổ một ly nước trà hay tội ác trong chiến tranh, cách nhìn của người thắng, người đúng là giống nhau: Có muốn nhìn thấy nữa hay không sai lầm khó tha thứ của kẻ ngu dốt, lầm lạc? Đó là chưa muốn nói rằng, trong cuộc đời, có thể tha thứ cho một sai lầm, nhưng không thể quên…
Quan niệm vì cái chung, vì xã tắc, sơn hà
Vì xã tắc, sơn hà mà gác lại mọi tình riêng, bon chen lợi phàm ích kỷ tư tưởng xuyên suốt của Trần Nhân Tông. Với cách quan niệm này, Trần Nhân Tông đã “tịch hiệp thiên hà” ngay cả trong thời bình.
Sau khi từ giã ngai vàng cao sang, về xem lại cuốn sổ phong quan của vua con Trần Anh Tông, Trần Nhân Tông đã đau đớn và phẫn uất mà thét lên rằng: “Đất nước bé bằng bàn tay, quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi?”. Tiếng kêu ai oán phẫn bách đó, 700 năm có lẻ rồi, lịch sử vẫn còn đau.
Trần Nhân Tông biết không thể “tịch hiệp” một cách chung chung. “Dân vi quý, quân vi khinh” là điều người xưa đã dạy. Đất nước điêu linh, tương tàn, dân đen khổ lắm! Nếu các vị chức lớn, quan to và cả vua nữa không nhìn thấy hết lẽ đời khổ tận, vất vả thì làm sao có thể hoà đồng cùng dân?
Xét từ góc độ của Hội nghị Diên Hồng thì cách mà vua con đã làm là đã chà đạp lên những giá trị đồng lòng mà Trần Nhân Tông đã cam kết, thề nguyện với bô lão cả nước. Làm sao có thể thăng quan, tiến chức thật nhiều cho một tầng lớp đặc quyền trong khi dân vẫn còn bữa đói nhiều hơn bữa no?
Thành quả từ chiến thắng, người dân phải có quyền hưởng chứ không thể chỉ là vinh quang, đặc quyền của một tầng lớp nào.
Nếu như trong việc đốt thư hàng giặc, Trần Nhân Tông đã “vi phạm nguyên tắc” của hiếu, của trung thì trong trường hợp thứ hai này, ông đã đề cao nó lên đến mức tận cùng.
Nếu ta cho rằng quan niệm ấy thiếu nhất quán là đã thật sự sai lầm. Cả hai cách làm ấy tuy khác nhau nhưng đều vì một lẽ đương nhiên là nghĩ rộng, nghĩ sâu đến dân, đến nước. Tìm trong các thư tịch cổ, biện giải trên là hoàn toàn chính xác.
Ngô Thì Sĩ chép rằng: “Vua đi chơi… răn bảo những người ấy (vệ sĩ) không được quát mắng các gia nô”. Tại sao một vị vua mà lại hiểu rất rõ rằng ngay cả vệ sĩ thôi, vẫn có thể hành dân đủ cách, đủ đường huống chi là quan? Nếu có răn đe quan lại thì cách răn đe của Trần Nhân Tông là diệu tuyệt của lòng nhân.
Không phải tự nhiên mà Trần Nhân Tông lấy pháp danh là Điều Ngự Đầu Đà – người đời gọi là Điều Ngự Giác Hoàng (người theo hạnh đầu đà điều hoà và chế ngự được tâm. Đầu Đà, tức Dhuta = rũ sạch: ba loại tham về áo quần, nơi ở, thức ăn). Điều Ngự hay Giác Hoàng là những tên gọi khác nhau của Phật.
Mang tên ấy phải là người thường mặc quần áo bằng thứ vải người ta vất đi (phẩn tảo y); chỉ ăn cơm trong (một) bát của chính mình; ngủ trên đồng cỏ, không cần cả bóng cây, mỗi ngày ăn một bữa trước chính ngọ…
Duyên nợ “Tịch hiệp” của Trần Nhân Tông là cái duyên đau đáu của muôn đời
Ở đây ta lại gặp thêm một “mâu thuẫn” nữa khi biết Trần Nhân Tông sau khi đã thành bậc đại sư, bôn ba hoằng dương Phật pháp ở phương nam xa xôi nhưng lại còn “đóng” thêm vai… ông mai, ông mối (!) Cái lẽ thường tình buộc chúng ta dễ dàng đồng ý với nhau rằng đã xuất gia thì phải lánh tuyệt bụi trần, nhất là vướng luỵ (dẫu đó là chuyện làm mai cho con gái mình).
Lửa dục, mà Đức Bồ Đề Đạt Ma thường vẫn nhắc nhở rằng nó “nóng nhất” trên thế gian này! Thế nhưng Trần Nhân Tông chẳng hề sợ hãi, chẳng chút băn khoăn.
Trước hết, ta thấy rằng Trần Nhân Tông đã đạt đến độ thượng thừa như Thiền sư Tuệ Trung (tên thật là Trần Trung, con trưởng An Sinh Vương Trần Liễu, anh cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).
Có lần, Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiện Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông, mẹ của Nhân Tông mời Tuệ Trung dự tiệc có cả chay và mặn. Tuệ Trung ăn món mặn ngon lành (!) Được hỏi vì sao lại thế, Thiền sư trả lời: “Phật là anh. Anh là Phật. Phật ở trong tâm. Tâm là Phật”.
Quan niệm đó là tông phái đặc trưng của Trúc Lâm Yên Tử. Dẫu sống ở trong trần ai mà vẫn thanh cao thư thái (cư trần lạc đạo). Phải đem Phật tính ra để giúp đời, vì “Dù xây chín bậc phù đồ / Không bằng làm phúc cứu cho một người”.
Trần Nhân Tông không chỉ cứu một người mà còn cứu cả dân tộc, cứu cả sự vĩnh hằng của giang sơn, Tổ quốc Việt Nam. Không có ai hiểu hơn Trần Nhân Tông vùng phên dậu phương Nam quan trọng đến mức nào. Kẻ thù bao giờ cũng mượn cớ đánh vào láng giềng phía Nam để diệt Đại Việt.
Có lẽ không có gì là quá khi khẳng định rằng TNT là người hiểu rõ nhất câu thành ngữ “Việt điểu sào nam chi” (chim Việt đậu cành nam). Con chim khôn của nước Việt phải biết tìm cành phương nam mà làm tổ. Tránh càng xa cái gió lạnh phương Bắc rét căm rét cảy càng tốt. Càng đi xa về phương nam bao nhiêu, non sông càng vững bền bấy nhiêu.
Trần Nhân Tông chỉ có một người con gái duy nhất thôi. Vậy mà, vì xã tắc muôn đời, ông sẵn sàng chịu để cho người đời chê trách.
Ông có nghe câu: “Tiếc thay cây Quế giữa rừng / Để cho thằng Mán thằng Mường, nó leo?”. Tôi nghĩ là có. Nhưng, cũng giống như tu tự tâm, giải thoát (moksha) rồi, ăn mặn hay ăn chay thì có khác gì nhau đâu? Ông biết nhưng ông tin cuộc đời sẽ hiểu. Con cháu sau này sẽ mãi tri ân.
“Tịch hiệp” trong trái tim Trần Nhân Tông là thống nhất cả giống nòi, cả quá khứ lẫn mai sau, cả thành công và lỗi lầm… Trong ông không có sự chia tách bắc – nam, đúng như ông đã từng nói: “Con người thì có nam có bắc còn Phật tánh không phân biệt bắc nam”.
Đọc đến đây ta chợt bừng tỉnh như vừa được một luồng gió mát tươi mới thổi ào qua cả trái tim và khối óc của mình. Ồ. Phải rồi.
Phải chăng một trong những nguyên do Trần Nhân Tông đến với Phật Tâm từ rất sớm là bởi ông biết rất rõ rằng trong một nước có 54 dân tộc, biết bao thù hận từ chiến tranh, biết bao bất đồng từ quá khứ, biết bao giằng xé về lợi quyền, biết bao sự lận lầm chân lý, thật giả nhiễu nhương… thì con đường duy nhất để “tịch hiệp” để cố kết, đồng lòng là con đường đến với chữ Tâm mà chỉ có Phật tính là diệu vợi không cùng.
Trần Nhân Tông quả là một trong những con người vĩ tuyệt nhất của thế gian này. Ông sinh ra trong một dòng tộc quyền quý, tất nhiên ông hiểu cái minh triết của thức nhận từ trái tim và trí tuệ mẫn tiệp, siêu quần.
Cõi Phật vào thời của Trần Nhân Tông là Lý Tưởng, là chân lý đích thực mà không một hệ tư tưởng nào có thể thay thế được, kể cả Nho gia.
Nho gia không thể liên kết được toàn thể giống nòi bởi dưới “con mắt rồng” của Khổng Phu Tử, thiên hạ đầy những kẻ tiểu nhân (!) Cởi Hoàng bào và khoác vào mình cái áo nâu sồng, Trần Nhân Tông chỉ cần có một bước là đã đến với nhân quần!
Viết về Trần Nhân Tông khi tôi cứ tự đếm bước mình trên những đường phố mang tên ông, nhỏ hẹp và ngắn ngủi. Cho dẫu cuộc đời có ai đó đã từng nghĩ thế thì trong dòng máu thẳm sâu khắc khoải của hồn Việt, trí tuệ Việt: Ông rạng ngời và vĩ đại vô cùng.
Tịch hiệp cả dải Ngân hà để cho cháu con đồng lòng, cho Tổ quốc vững bền đến muôn thuở là tâm nguyện của ông. “Số đời một màn kéo / Tình người đôi mắt ngân” là tiếng hát của trái tim biết yêu thương cùng đất nước giống nòi từng phút, từng giây.
“Giang sơn nghìn thuở vững âu vàng” là câu thơ được tinh chiết từ khí núi, hồn sông. “Tịch hiệp thiên hà tẩy chiến trần” là nỗi khắc khoải dài lâu nhất của dân tộc Việt Nam. Và, “Gia trung hữu bảo vưu tầm mịch” (của báu có sẵn trong nhà chớ tìm đâu xa nữa) là lời nhắn nhủ tâm huyết sâu xa, ý vị đến muôn đời…
Theo nhà văn Hà Văn Thịnh