Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Đức vua Trần Nhân Tông là 1 trong 14 vị vua của nước Đại Việt được đánh giá cao về tâm và tầm. Là người có công lớn trong việc bảo vệ hòa bình và mở rộng lãnh thổ nước Đại Việt. Nội dung bài viết sau đây sẽ tóm tắt sơ lược về tiểu sử đức vua Trần Nhân Tông, hãy cùng tìm hiểu nhé.

1. Tiểu sử đức vua, phật hoàng Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm (陳昑), sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai trưởng của Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều.

Theo mô tả của Đại Việt Sử ký Toàn thư, Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子).

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Các chú giải của Trần Quang Chỉ trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ cho biết Trần Khâm đã được dạy kỹ về hệ thống tư tưởng Phật-Lão-Nho và am hiểu tường tận giáo pháp nhà Phật. Ông cũng đạt được trình độ cao về các lĩnh vực như quân sự, âm nhạc, lịch số học và thiên văn học.

Năm 1274, khi Trần Khâm 16 tuổi, ông được vua Trần Thánh Tông chỉ định làm Thái tử nối ngôi. Theo sách Thánh đăng ngữ lục (một tác phẩm khuyết danh về sự nghiệp tu Phật của 5 vua đầu thời Trần, được viết vào khoảng thế kỷ 14), Trần Khâm đã nhiều lần từ chối ngôi Thái tử và thuyết phục Trần Thánh Tông lập em ông lên thay, nhưng không được vua cha chấp thuận.

Thậm chí có lần Trần Khâm định trốn lên núi Yên Tử ẩn tu, khiến vua Trần Thánh Tông phải sai quan quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô.

Trần Khâm đành chấp nhận ngôi Thái tử, nhưng ông vẫn duy trì nếp sống thanh tịnh trên tinh thần Phật giáo; ông cũng dành nhiều thời gian đàm đạo với thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (tức Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung – anh họ của Trần Thánh Tông) và tôn xưng vị này làm thầy mình

Vua Trần Thánh Tông đã mời các bậc trưởng lão, tinh thông nho giác, tứ thư, ngũ kinh và phật giáo để dạy giỗ cho Trần Nhân Tông, chính vua cha đã soạn sách di Hậu lục để dạy cho thái tử cách xử thế để đối xử sau này, để có kiến thức để chuẩn bị cho việc lớn sau này là nối nghiệp vua Trần Thánh Tông, chính vì vậy mà ngài tinh thông về mọi thứ.

Về phật pháp ngài được học với Tuệ Trung thượng sĩ và được thượng sĩ hết lòng chỉ dạy trao truyền những ý nghĩa thiện tông, ngài đã ngộ ra nhiều điều.

Ngài Trần Nhân Tông là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Trần, khi ngài vừa tròn 20 tuổi vào năm mậu dần 1278 hoang thái tử được truyền ngôn xưng là hoàng để hiệu là Hiếu Hoàng.

Vào năm 1279 đức vua Trần Nhân Tông đổi niên hiệu là Thiệu Bảo, kế nghiệp các tiên đế nhà Trần. Ông trị vị từ này 8/11/1278 đến ngày 16/4/1293 sau đó làm Thái Thượng Hoàng cho đến khi qua đời.

Được biết Trần Nhân Tông lên ngôi và đưa ra rất nhiều chính sách khoan hòa thân dân, vua lấy đức mà trị vì Đại Việt, chăm lo cho dân chúng xây dựng quốc gia hòa bình thịnh trị.

Đức vua Trần Nhân Tông có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc nhưng ngài lại có chi hướng xuất gia theo Phật để cứu đời. Với mong muốn theo phật nên ngài đã rất nhiều lần xin vua cha nhường ngôi thái tử để theo phật và cho em là Tá Thiên Vương Trần Đức Việp thay vị trí của mình.

Nhưng vua cha không đồng ý vì vua tra nhìn ra được khí chất, tài năng của ông và nhận định rằng ông là người có thể trị vì thiên hạ.

Vì lòng yêu phật pháp nên đã có rất nhiều lần ông vượt thành vào đêm khuya đến núi Yên tử ẩn tu, đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời sáng, ông đã thấm mệt nên vào nghỉ trong tháp. Khi đó các vị tu sĩ ở chùa thấy ông có dung mạo phi thường, ánh sáng hào quang phát ra từ ông nên mời ông ăn cơm.

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Khi Trần Thánh Tông biết tin đã sai quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô. Khi đó ông đã phải miễn cưỡng nhận ngôi thái tử.

Đức Vua Trần Nhân Tông được biết đến là ông vua anh minh, được dân yêu mến, có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt vào cuối thế kỷ XIII. Ông giúp nước đại Việt bảo vệ nền độc lập, mở rộng lãnh thổ đất nước. Ông là 1 trong 14 vị vua tiêu biểu của dân tộc Việt Nam và đến ngày nay ông vẫn được mọi người kính trọng.

2.  Trần Nhân Tông hoàng đế Đại Việt Buổi đầu trị nước

Được biệt ngay trong lúc nước nhà bị đe dọa thì Trần Nhân Tông lên ngôi. Lúc này quân Nguyên – Mông đã chinh phục hầu hết Nam Tống và đã bắt đầu dòm ngó Đại Việt.

Giặc nguyên Mông xâm lược Đại Việt vào năm 1282 ngài chủ trì hội nghị Bình than lấy ý kiến của toàn quân, toàn dân đại việt, đoàn kết chống giắc ngoại xâm. Khi đó ngài là người trực tiếp lãnh đạo quân dân Đại Việt hai lần chiến thắng quân Nguyên – Mông 1285 và 1288 hào khí của ngài vang đội.

Sau khi thành công đánh đuổi giặc ngoại xâm thì xã tắc thanh bình, dân chúng an cư lập nghiệm, ngài có nhiều chính sách để phát triển kinh tế, chính sách hòa giải khi ngài đã xóa bỏ mọi lỗi lầm trước đó của các quần thần, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Về Ngoại Giao ngài đã thực thi chính sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn với các nước lân bang.

Năm 1293 lúc này ngài 41 tuổi đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và trở thành thái thượng hoàng. 

Sau khi nhường ngôi thì đến năm 1294 thượng hoàng Trần Nhân Tông đích thân lãnh đạo quân sĩ Đại Việt đi chinh phục Ai Lao giữ yên bờ cõi và tiếp tục mối an giao hòa hỏa với đất nước triệu voi. Sau khi xã tắc được bình yên, ngài trở về cung Vũ Lâm thuộc tỉnh Ninh Bình hiện nay. Lúc này ngài xuất gia tam giới.

3. Hai lần kháng chiến chống quân Nguyên

3.1. Kháng chiến chống quân Nguyên (1285)

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan đưa quân đến sát ải Nam Quan và viết thư đòi “mượn đường” tấn công Chiêm Thành. Nhân Tông sai sứ thuyết phục Thoát Hoan rằng: “Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy, đường bộ đều không tiện cả”; và đồng thời, nhà vua ra lệnh cho Hưng Đạo vương thành lập tuyến phòng thủ trên biên giới.

Ngày 27 tháng 1, quân Nguyên vượt biên giới, đánh bại quân Đại Việt tại các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược và Chi Lăng. Hưng Đạo vương phải rút quân chạy về bến Vạn Kiếp (nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương).Sau khi nhận tin này, Nhân Tông bỏ cả bữa ăn sáng để đi thuyền nhẹ xuống Hải Đông và hội kiến với Quốc Tuấn.

Trên đường đi, có người lính tên Trần Lai dâng cơm, dù gạo xấu nhưng hoàng đế ghi nhận lòng trung thành của Lai, cho Lai chức Thượng phẩm kiêm Tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng. Tại Hải Đông, ông truyền cho Trần Quốc Tuấn gọi quân từ các lộ phía đông bắc như Vân Trà, Ba Điểm về tập kết tại Vạn Kiếp.

Các vương hầu như Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiện, Hưng Trí vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng cũng mang 20 vạn quân đến giữ nơi này.Để động viên tinh thần tướng sĩ, Nhân Tông đã đề ở cuối thuyền 2 câu thơ rằng:

Cối Kê việc cũ người nên nhớ
Hoan Diễn kia còn chục vạn quân.

Ngày 11 tháng 2 năm 1285, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem binh thuyền tấn công Vạn Kiếp. Quân Đại Việt do nhà vua và Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh trả quyết liệt, giết được tướng Nguyên là Nghê Nhuận. Tuy nhiên, người Việt đã quyết định rút lui để tránh thế địch mạnh, thực hiện nghi binh khiến địch mệt mỏi rồi mới phản kích.

Đến ngày 14, Ô Mã Nhi tổ chức bao vây 10 vạn quân của Nhân Tông tại Bình Than. Một trận thủy chiến lớn diễn ra và quân Nguyên cuối cùng đã không cản được quân Việt rút lui. Nhân Tông cùng Quốc Tuấn rút đại quân từ Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về đóng trên sông Hồng gần Thăng Long.

Tại đây, vua Trần cho tập trung thủy quân và xây dựng các chiến lũy bằng gỗ trên bờ nam để cầm chân quân Nguyên, tạo thời gian cho việc sơ tán quân dân khỏi kinh thành theo kế vườn không nhà trống. Ngày 17 tháng 2, quân Nguyên lập doanh trại trên bờ bắc sông Hồng.

Vua Nhân Tông muốn tìm người sang thương thuyết, thực tế là thăm dò tình hình quân Nguyên. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung xung phong đi, nhà vua cả mừng nói: “Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!”. Khắc Chung đem thư giảng hòa sang trại Ô Mã Nhi.

Theo sử sách, tài đối đáp của Khắc Chung đã khiến các tướng Nguyên phải nhận xét: “Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được”. Hôm sau, Khắc Chung về chỗ vua Trần đóng quân, ngay sau đó hai bên Nguyên-Việt đại chiến bên sông Hồng.

Quân Nguyên giành được thế thượng phong, nhưng quân dân Đại Việt đã kịp thời di tản khỏi Thăng Long. Thánh Tông, Nhân Tông dẫn đại quân triệt thoái theo đường sông Hồng về hướng phủ Thiên Trường (Nam Định). Thoát Hoan chia quân làm 2 đường thủy bộ ráo riết truy kích.

Hai vua và Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một số trận đánh chặn tại bãi Đà Mạc và ải Hải Thị, nhưng bị thất bại. Sau trận Hải Thị, quân vua Trần lui hẳn về đóng quân tại Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình).

Tháng 3 năm 1285, cánh quân Nguyên của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh thốc vào mạn nam Đại Việt. Hưng Đạo vương xin Trần Nhân Tông sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đón đánh Toa Đô ở Nghệ An.Quân Nguyên nhanh chóng đánh bật quân Việt khỏi Nghệ An và Thanh Hóa, đẩy đại quân của Nhân Tông vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam.

Trần Quốc Tuấn đưa hai vua chạy về vùng bờ biển ở Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay. Trong hành trình rút lui, hai vua bị quân Nguyên đuổi gấp.

Khi thấy quân Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285 Nhân Tông và Phụ hoàng lại vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị đối phương kìm kẹp. Toa Đô đã đưa quân vào Thanh Hóa truy lùng nhà vua, nhưng không thể tìm ra ông.

Trong thời gian này, nhiều tôn thất hoàng gia như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Thượng vị Chiêu Văn hầu Trần Lộng đầu hàng quân Nguyên.Tuy nhiên, quân Nguyên cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt lương thực, không hạp khí hậu và liên tục bị dân binh Việt đánh phá sau lưng.

Tại Thanh Hóa, vua Trần đã chỉnh đốn, tổ chức lại lực lượng. Khoảng tháng 3 – 4 âm lịch, Nhân Tông đã nhận định trong một cuộc họp với các quan:

“Bọn giặc nhiều năm phải đi xa, lương thảo chuyên chở hàng vạn dặm, thế tất mỏi mệt. Lấy nhàn chống mệt, trước hết hãy làm chúng nhụt chí, thì ắt là đánh bại được chúng.” – Vua Trần Nhân Tông

Trên tinh thần đó, hai vua và Trần Quốc Tuấn chia đại quân thành nhiều mũi thực hiện tổng phản công.

Dưới sự thống lĩnh của Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Tung, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Nguyễn Khoái và một số tướng khác, các cánh quân Đại Việt đã liên tiếp đánh thắng quân Nguyên tại đồn A Lỗ (nơi gần điểm hợp lưu của sông Luộc với sông Hồng), cửa Hàm Tử (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), Chương Dương Độ (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) và giải phóng Thăng Long trong hai tháng 5, 6. Quyển 209 của Nguyên sử có nhận định:

“Người Giao chống cự quan quân [Nguyên-Mông], tuy nhiều lần bị bại tan, nhưng binh lực chuyển thành nhiều thêm. Quan quân khốn khổ, thiếu thốn, chết và bị thương cũng nhiểu. Quân và ngựa Mông Cổ cũng không thi thố được tài năng nên bỏ kinh thành của họ, qua bờ sông phía Bắc.” – An Nam Truyện

Ngày 7 tháng 6 năm 1285, Hoàng đế Trần Nhân Tông rước Thượng hoàng ra bắc, đích thân đánh bại một lực lượng Nguyên trong trận Trường Yên ngày 7 tháng 6 năm 1285. Quân Nguyên chết hại “nhiều không kể xiết”.

Ngày 24 tháng 6, hai vua tấn công quân chủ lực của Toa Đô tại Tây Kết (Khoái Châu). Quân hai vua thắng to, chém chết Nguyên soái Toa Đô, bắt được hơn 5 vạn quân Nguyên, tịch thu một lượng lớn khí giới.

Tổng quản quân Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Đến nửa đêm, Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hóa, hai vua thúc quân truy kích nhưng không bắt được, Ô Mã Nhi dùng thuyền vượt biển thoát thân.

Theo Toàn thư, Nhân Tông khi thấy thủ cấp của Toa Đô đã nhận xét “người làm tôi phải nên như thế này”, rồi cởi áo ngự phủ lên và sai người khâm liệm tử tế.

Cùng lúc đó, hai anh em Trần Quốc Tuấn, Quốc Tung mở nhiều cuộc tấn công lớn trên bờ bắc sông Hồng và quét sạch cánh quân Thoát Hoan khỏi Đại Việt. Ngày 9 tháng 7 năm 1285, hai vua ca khúc khải hoàn trở về Thăng Long. Sách Việt sử tiêu án có ghi lại lời bàn của sử thần về cách lãnh đạo của Trần Nhân Tông:

“Mỗi lần có tin báo quân Nguyên sang cướp, thì tất là Vua thân hành ra ngoài trông coi quân, khi đi đông, đi tây, không đi nhất định đường nào, khi ở trên bộ, khi ở thủy không đóng nhất định ở đâu, đó không phải là rát, là vì Vua ở bên ngoài, thì dễ hiệu triệu thiên hạ.

Cổ lệ lòng hăng hái của quân sĩ, chư tướng thì tiện việc tâu xin mệnh lệnh, tam quân thì vui lòng xông pha, lính tráng đều là quân của nước, của nhà giàu là của nước, có cơ hội nào thì cổ động quân sĩ xông vào trước, gặp tình thế không may thì tùy tiện mà chống giữ;

Khi tiến quân thì nhanh như chớp nhoáng, khi lui về thì như rồng rắn ẩn thân, giặc không biết đâu mà lường đạc được, nếu chỉ nấp giữ ở trong thành, thì địch coi đó là sào huyệt, chúng sẽ chặn đường không cho vận lương đến, và giữ viện binh không vào được, đến nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao.

Có tin giặc đến mà Vua lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế, liệu sức giặc và tính cách đánh của nhà Trần.”

3.2. Kháng chiến chống quân Nguyên (1287 – 1288)

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Sau khi đánh bại cuộc tấn công của Nguyên – Mông, tháng 7 năm 1285, vua Nhân Tông đã phóng thích các tù binh người Chiêm Thành (họ bị quân Nguyên bắt tòng quân khi Toa Đô xâm lược Chiêm Thành năm 1283) về nước. Tù binh quân chính quy Nguyên-Mông cũng được trở về quê hương vào mùa xuân năm 1286.

Về nội trị, tháng 9 năm 1285, ông đã tiến hành phong thưởng các quan, tướng có công và trừng phạt những người từng đầu hàng địch. Đến tháng 11, ông ra lệnh xét duyệt hộ khẩu trong cả nước.

Có bầy tôi ngăn cản vua, cho là dân vừa trải qua nhiều vất vả, nên việc duyệt hộ khẩu lúc này là không cần thiết. Vua Nhân Tông quả quyết: “Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét [tình trạng] hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?”; các quan bèn nghe theo. Sử gia Ngô Thì Sĩ có phê phán quyết định của vua Nhân Tông:

“Lúc ấy quân giặc mới rút lui, dân bị thương đau chưa khỏi, dân lưu tán chưa kéo về, thôn xóm đồng ruộng điêu tàn xơ xác, chiêu tập vỗ về dân còn chưa xong, mà đã vội vàng làm sổ đinh;

trong việc làm ấy thì phải quan chức tra xét, dân chúng hội họp, phí tổn về ăn uống; con gà, đùi lợn tránh sao khỏi phí, sổ mới, lệ cũ so sánh khó đều, sau khi binh lửa, mà phải bỏ nghề nghiệp đi hầu tra cứu nhiễu dân quá lắm;

quần thần biết nói phải để chữa lỗi lầm, Vua trên lại trái lời can mà đặt điều để che lỗi; thế mà quần thần không cố can gián, mà lại khen phục, có phải gần như xiểm nịnh không?” – Ngô Thi Sĩ

Cuối năm 1286, Hốt Tất Liệt huy động 30 vạn quân và 500 thuyền chiến chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần hai.

Nhận được tin này từ các quan biên giới, vua Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương: “”Năm nay thế giặc ra sao?” và được trả lời: “Nước ta thái bình lâu ngày, dân không hiểu việc binh, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp, còn có kẻ ra hàng hay trốn tránh. Nhờ uy linh tổ tôn, ta đã quét sạch bụi Hồ. Nếu giặc lại đến, quân ta đánh đã quen, quân nó ngại đi xa.

Ý thần xem ra tất phá được giặc”.Sau đó, hai vua đôn đốc vương hầu chiêu mộ, huấn luyện binh sĩ, đồng thời chế tạo binh khí và tàu thuyền để chuẩn bị kháng chiến.

Tháng 12 năm 1287, quân thủy bộ nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến vào Đại Việt. Khác với cuộc chiến năm 1285, quân Việt chỉ đánh có tính kìm chân rồi chủ động lui khỏi biên giới.

Thoát Hoan lại tung 2 vạn quân thủy bộ tấn công và chiếm Vạn Kiếp làm căn cứ, sau đó tiến về Thăng Long.Ngày 2 tháng 2 năm 1288, quân Nguyên mở màn đánh phá Thăng Long. Quân Đại Việt bỏ thành rút lui.

Cũng ngày này, hải quân Đại Việt do Trần Khánh Dư chỉ huy đã tập kích và tiêu diệt hoàn toàn đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tại Vân Đồn (Quảng Ninh). Các đoàn thuyền lương khác của quân Nguyên cũng không vào được Đại Việt vì bị bão biển, hoặc vì đi lạc tới Chiêm Thành.

Sau khi Thăng Long thất thủ, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi truy đuổi cha con vua Trần. Nhưng Thánh Tông và Nhân Tông đã lui xuống hạ lưu sông Hồng rồi eo cửa Giao Thủy đi ra biển vòng lên Tháp Sơn (Đồ Sơn).

Thoát Hoan đành thu quân về Thăng Long, sau đó cử Ô Mã Nhi đi tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Lúc này hai vua và Trần Quốc Tuấn đã tập trung quân thủy bộ ở Tháp Sơn.

Khi quân Ô Mã Nhi qua đây, Nhân Tông tổ chức tập kích ở cửa Văn Úc (ngày 10 tháng 2 năm 1288), và trên biển gần Tháp Sơn, gây nhiều thiệt hại cho quân Nguyên. Ô Mã Nhi bèn dẫn quân trở lại Vạn Kiếp.

Ở Thăng Long mà không có lương thực, Thoát Hoan lúng túng. Không những thế, quân Đại Việt đã phản công mạnh mẽ và kiểm soát vùng Hải Dương và Hải Phòng đẩy Thoát Hoan vào nguy cơ bị cắt đường về Vạn Kiếp.

Tình huống này buộc Thoát Hoan rút quân khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp. Hai vua Trần một mặt sai Hưng Ninh vương Quốc Tung đến giả vờ hẹn ngày đầu hàng để làm quân Nguyên mất cảnh giác, mặt khác cứ đến đêm lại tung quân đột kích vào Vạn Kiếp.

Cuối tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan quyết định lui quân khỏi Đại Việt; Ô Mã Nhi được lệnh dẫn một cánh quân thủy rút về trước. Ngày 9 tháng 4, cánh quân này tiến đến sông Bạch Đằng và lọt vào trận địa mai phục của đại quân Việt.

Dưới sự chỉ huy trực tiếp của hai vua và Trần Quốc Tuấn, quân Đại Việt đã tiêu diệt toàn bộ cánh thủy quân Nguyên, bắt sống nhiều tướng lĩnh (trong đó có Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ) và tịch thu 400 thuyền chiến.

Ngày 18 tháng 4, hai vua Trần về phủ Long Hưng (Thái Bình) và đưa các bại tướng của trận Bạch Đằng bị bắt đến trình diện trước lăng Trần Thái Tông. Tương truyền khi đó chân của các tượng ngựa đá trong lăng đều lấm bùn, như thể những vật này cũng vừa mới tham gia chiến đấu. Nhân Tông tức cảnh ngâm hai câu thơ rằng:

Xã tắc hai phen bon ngựa đá,

Non sông ngàn thuở vững âu vàng.

Một ngày trước trận Bạch Đằng, đại quân Nguyên bắt đầu rút từ Vạn Kiếp lên biên giới. Hữu thừa Nguyên là Trình Bằng Phi chọn những binh sĩ thiện chiến yểm hộ cho Thoát Hoan chạy về nước.

Quân Nguyên về tới ải Nội Bàng (thị trấn Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay) thì bị quân Đại Việt phục kích dữ dội, Vạn hộ Nguyên là Trương Quân phải đem 3000 quân liều chết chiến đấu mới thoát khỏi cửa ải.

Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan lại nhận tin trinh sát rằng phía trước có 30 vạn quân Đại Việt trải dọc suốt 100 dặm mai phục, đành đổi hướng đi qua Đơn Kỷ (khoảng huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn ngày nay) về Lộc Châu.

Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích. Quân Đại Việt từ trên cao bắn tên độc, giết các tướng Trương Ngọc và Abaci.

Theo Nguyên sử, quân Nguyên lúc đó đã “thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc” nhưng vẫn phải “cố xông vào mà đánh” và “buộc vết thương lại mà đánh”. Đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên đã bị quét sạch hoàn toàn khỏi Đại Việt.

Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục biên soạn thời vua Nguyễn Dực Tông (cai trị 1847 – 1883), sử quan Đại Nam có nhận xét về vai trò của vua Trần Nhân Tông và các tướng lĩnh tài ba trong hai lần đánh bại quân Nguyên

“Lúc bấy giờ nhà Nguyên mới nổi lên, khí thế rất ngang ngược; nhà Trần cũng may gặp lúc mới nổi lên, được các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và tướng văn tướng võ phần nhiều người tài, mới có thể đánh bại được giặc, giữ được nước, chứ nếu gặp người khác thì chưa biết thế nào.”

4. Sơ tổ Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam

Vào năm 1299 ngài trở về kinh thành Thăng Long và thẳng tiến lên núi Yên Tử nay thuộc Uông Bí, Quảng Ninh. Tinh cần tu hành đầu đà lấy hiệu là hương vân đại đầu đà, ngài cho dựng chùa, giảng pháp, độ tăng thu hút người học phật về yên tử rất đông, đồng thời  ngài cũng đã thông nhất 3 giọng thiền và thành lập nên Trúc Lâm Yên Tử.

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Xuất gia tu hành chứng ngộ thiên túy của thiền tông và với tinh thần nhật thế sâu sắc, ngài Trần Nhân Tông đã thường xuyên đi khắp nơi để giảng phật pháp, ngài không chỉ đến các vùng thành thị đến nông thôn, ngài còn đi đến cả các nước lân bang.

Vào năm 1301 ngài đến trại bố chính nay là Lệ Thủy, Quảng Thủy, luật an chi kiến này là chùa Hoằng Phúc huyện Lệ Thủy tu hành.

Nắm vững tình hinh và thực hiện hành trình hóa độ cho các nước láng giềng phía Nam đến Chiêm Thành, Quốc vương Chăm – pa rất kính cẩn, mời ngài giảng giải giáo nghĩa thiền tông, thông qua phật pháp ngài đã tạo lập mối liên hệ hợp tác hòa bình hữu nghị với các nước lân bang.

Kết qủa là vùng Châu Thuận, Châu Hóa mới được xác nhập vào đại việt do vua Chế Mân, dâng làm sính lễ cưới Huyền Trân Công chúa, Thiền phái Trúc Lâm là nơi sinh hoạt tâm linh cho các cư dân từ bắc vào sinh sống trên vùng đất mới, mà còn là công trình văn hóa khẳng định chủ quyền của dân tộc, cùng với việc truyền bá văn hóa Đại Việt.

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Vào năm 1304 Ngài chống gậy trúc đi dạo khắp địa phương, xóm làng trong nước để khuyến khích nhân dân giữ gìn 5 giới, tu hành, dẹp bỏ những nơi thờ cúng không chính pháp, loại bỏ những điều mê tín dị đoan, xây dựng chứng tin. Mùa đông cùng năm đó vua Trần Anh Tông dâng biểu thỉnh mời điều ngự vào đại nội trong cung để truyền giới bồ tát cho các vương công, bá quan văn võ quần thần.

Vào năm 1307 niên hiệu Hưng Long thứ 15 tại am núi ngọa vân trong số các đệ tử. Ngài Trần Nhân Tông đã trao truyền y bác và viết tâm kể trao cho tôn giả pháp Loa, là nội dõi truyền thừa trúc lâm.

Vào năm 1308 vào này Ngày mồng một tháng 1 năm Mậu Thân lấy niên hiệu Hưng Long thứ 16 tại cam lộ đường chưa siêu loại này là Gia Lâm Hà Nội, Trần Nhân Tông đã trao chức vụ chủ trì chùa Báo Ân cho ngài Pháp Loa, truyền tâm ấn phong là đệ nhị tổ trúc Lâm. Trước sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông. Trần Nhân Tông trở thành sơ tổ trúc Lâm. Trong thời gian đó ngài thường lui tới các chùa để giảng kinh và thuyết pháp.

Tiểu sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế duy nhất của Việt Nam quy y cửa Phật

Ngày 1/11 năm mậu thân 1308 Trần Nhân Tông nhập diệt tại đỉnh Ngọa Vân, núi yên tử tọa thế Tháng 11 âm lịch năm 1308, Điều ngự Trần Nhân Tông viên tịch trên đỉnh Ngọa Vân.

Trên đây là đôi chút thông tin về Đức Vua Trần Nhân Tông, ông là một trong những vị vua anh minh, sáng suốt và có nhiều chính sách cai trị được lòng dân, mang đến cho dân chúng một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nguồn: Tổng hợp