Là nhà khoa học, nhà phát minh đại tài, Alfred Nobel là chủ nhân của 355 bằng sáng chế, trong đó đáng chú ý nhất là phát minh về thuốc nổ. Nobel đã dành phần lớn thời gian trưởng thành của mình để tạo ra chất nổ mạnh hơn bao giờ hết, đồng thời viết thơ và kịch, đồng thời ủng hộ hòa bình thế giới. Cống hiến suốt đời cho khoa học, Nobel đạt tới đỉnh cao của vinh quang và giàu có, nhưng lại bất hạnh về đời tư và ra đi trong cô độc.
Thông tin sơ lược về Alfred Nobel
- Được biết đến với: Nhà phát minh ra thuốc nổ và người được trao giải Nobel
- Sinh: 21 tháng 10 năm 1833 tại Stockholm, Thụy Điển
- Cha mẹ: Immanuel Nobel và Caroline Andrietta Ahlsell
- Qua đời: ngày 10 tháng 12 năm 1896 tại San Remo, Ý
- Giáo dục: Gia sư riêng
- Bằng sáng chế: Bằng sáng chế số 78.317 của Hoa Kỳ cho “Hợp chất nổ cải tiến”.
- Giải thưởng: Được bầu cho Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, 1884
- Trích dẫn đáng chú ý: “Những lời chúc tốt đẹp một mình sẽ không đảm bảo hòa bình.”
Giai đoạn đầu đời
Alfred Bernhard Nobel sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại Stockholm, Thụy Điển, là một trong tám người con của Immanuel Nobel và Caroline Andrietta Ahlsell. Cùng năm Nobel được sinh ra, cha của ông, một nhà phát minh và kỹ sư, bị phá sản do bất hạnh tài chính và một trận hỏa hoạn đã phá hủy phần lớn công việc của ông.
Những khó khăn này khiến gia đình rơi vào cảnh nghèo khó, chỉ còn Alfred Nobel và ba anh em của anh sống sót qua thời thơ ấu. Mặc dù dễ bị bệnh, Nobel trẻ tuổi tỏ ra yêu thích chất nổ, thừa hưởng niềm đam mê công nghệ và kỹ thuật từ cha mình, người đã tốt nghiệp Học viện Công nghệ Hoàng gia ở Stockholm. Nobel cũng là hậu duệ của nhà khoa học Thụy Điển thế kỷ 17, Olaus Rudbeck.
Sau khi thất bại trong nhiều dự án kinh doanh khác nhau ở Stockholm, Immanuel Nobel chuyển đến St.Petersburg, Nga vào năm 1837, nơi ông trở thành một kỹ sư cơ khí thành công cung cấp thiết bị cho Quân đội Nga.
Công việc của ông bao gồm ngư lôi và mìn nổ, những thứ sẽ phát nổ khi một con tàu đâm vào chúng. Những quả mìn này hoạt động bằng cách sử dụng một vụ nổ nhỏ để tạo ra những quả nổ lớn hơn, một cái nhìn sâu sắc mà sau này chứng minh là hữu ích cho con trai ông, Alfred, trong việc phát minh ra thuốc nổ.
Năm 1842, Alfred và phần còn lại của gia đình Nobel gia nhập Immanuel đến St.Petersburg. Bây giờ thịnh vượng, cha mẹ của Nobel đã có thể gửi ông đến những gia sư tư nhân giỏi nhất, những người đã dạy ông các môn khoa học tự nhiên, ngôn ngữ và văn học.
Đến năm 16 tuổi, anh đã thành thạo hóa học và thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga cũng như Thụy Điển.
Cuộc gặp gỡ định mệnh
Sau vài năm chật vật nhưng không thể vực dậy, năm 1937, ông Immanuel Nobel quyết định đưa cả gia đình tới Phần Lan rồi sau đó là Nga tìm kiếm cơ hội mới.
May mắn đã mỉm cười với gia đình họ khi việc kinh doanh của ông Immanuel tại Nga càng ngày càng phát đạt. Xưởng cơ khí của ông liên tục nhận được những hợp đồng đóng thiết bị cho quân đội Nga, nhất là trong giai đoạn chiến tranh bùng nổ ở Nga trong khoảng thời gian 1853-1856. Nhờ đó mà cả gia đình Nobel được hưởng cuộc sống của tầng lớp tư sản cao cấp.
3 cậu con trai được ông Immanuel tạo mọi điều kiện để phát triển. Họ không phải đến trường mà được cha mời các giáo viên nổi tiếng từ cỡ giáo sư đại học về dạy riêng tại nhà các môn khoa học tự nhiên, văn học và ngôn ngữ.
Trong số 4 người con của ông Immanuel, cậu con trai thứ 3 Alfred được đánh giá cao nhất. Năm 17 tuổi, Alfred đã thông thạo 5 thứ tiếng là Thụy Điển, Nga, Pháp, Anh và tiếng Đức.
Cậu là người tiếp thu rất nhanh các kiến thức hóa học, đồng thời cũng là người rất có tâm hồn, đặc biệt thích thú với văn học và thơ ca Anh. Vì muốn con trai sẽ kế nghiệp mình nên khi thấy Alfred hơi thiên về con đường văn nghệ, ông Immanuel đã quyết định cho Alfred ra nước ngoài để học thêm kỹ thuật hóa học.
Trong 2 năm đó, tại Paris, Alfred tham gia khóa đào tạo do Giáo sư T. J. Pelouze – một nhà hóa học nổi tiếng – tổ chức và tình cờ gặp nhà hóa học trẻ người Italia tên Ascanio Sobrero. Sobrero chính là người đã phát minh ra nitroglycerine – chất lỏng có hoạt tính nổ cao, được chế bằng cách pha trộn glycerine với sulfuric và axit nitric.
Dù có sức công phá lớn hơn nhiều so với thuốc súng nhưng nitroglycerine lúc bấy giờ lại được cho là quá nguy hiểm để sử dụng trong thực tế vì nó có thể phát nổ một cách bất ngờ nếu gặp nhiệt độ cao và áp suất. Dù vậy nhưng sau khi được giới thiệu về nitroglycerine, Alfred Nobel tỏ ra rất hứng thú và liên tục suy nghĩ về cách thức để có thể đưa chất lỏng này vào sử dụng trong hoạt động xây dựng.
Sáng chế “đổi đời” của Alfred Nobel
Năm 1852, khi đơn đặt hàng từ quân đội Nga gia tăng mạnh, ông Immanuel đã gọi Alfred Nobel về nước để giúp đỡ quản lý doanh nghiệp của gia đình. Cùng lúc, 2 cha con đã tích cực tiến hành các thí nghiệm để chế thuốc nổ có thể sử dụng trong hoạt động thương mại và kỹ thuật từ nitroglycerine.
Tuy nhiên, biến cố thêm một lần ập đến với gia đình họ khi chiến tranh ở Nga kết thúc, khiến doanh nghiệp của ông Immanuel một lần nữa buộc phải phá sản do không có đơn hàng. Trong tình hình đó, ông Immanuel quyết định cùng 2 cậu con út Alfred và Emil rời khỏi St. Petersburg để về Stockholm. 2 người con đầu là Robert và Ludvig tiếp tục ở lại và chuyển hướng sang lĩnh vực dầu mỏ.
Về phía Alfred Nobel, sau khi trở về Thụy Điển vào năm 1863, ông tập trung vào phát triển thuốc nổ từ nitroglycerine. Chưa có được thành quả lớn nào, ông đã phải hứng chịu mất mát khi cậu em trai Emil bị thiệt mạng trong một vụ nổ nitroglycerine trong quá trình thử nghiệm.
Sau một vài vụ nổ khiến thêm một số người khác tại phòng thí nghiệm của Alfred thiệt mạng, giới chức Thụy Điển cho rằng việc sản xuất nitroglycerine quá nguy hiểm nên đã cấm thử nghiệm chất này tại Stockholm, buộc Alfred Nobel phải chuyển hoạt động nghiên cứu xuống những chiếc sà lan ở hồ Lake Malaren. Dù vậy nhưng Alfred không nản lòng. Cuối cùng, đến năm 1864, ông đã có thể sản xuất hàng loạt nitroglycerine.
Để việc sử dụng nitroglycerine an toàn hơn, Alfred đã thử nghiệm với các chất phụ gia khác nhau và phát hiện nếu trộn chất lỏng này với đất tảo cát sẽ tạo ra một hỗn hợp có thể được định hình thành những thanh có cùng kích cỡ và có thể nhét vào những lỗ khoan. Năm 1867, ông đã được cấp bằng sáng chế vật liệu mới dưới tên thuốc nổ.
Để kích nổ những thanh thuốc nổ, ông cũng sáng chế ra ngòi nổ có thể kích nổ bằng cách châm ngòi. Những sáng chế của ông đã giảm đáng kể chi phí nổ đá, khoan các đường hầm, xây dựng kênh rạch và nhiều hoạt động xây dựng khác nên nhanh chóng trở nên “hot”.
Với sự nhạy bén của một doanh nhân sẵn có, Alfred Nobel đã sớm có được những thành công lớn trong hoạt động kinh doanh thuốc nổ và ngòi nổ. Đến năm 1865, các sản phẩm do công ty của ông sản xuất đã xuất ra nhiều nước châu Âu, Mỹ và cả Úc.
Tổng cộng, ông đã mở được khoảng 90 chi nhánh nhà xưởng và phòng thí nghiệm ở hơn 20 nước trên thế giới. Cùng với đó, số tài sản của ông cũng gia tăng chóng mặt, đến mức ông được Victor Hugo miêu tả là người giàu nhất châu Âu lúc bấy giờ.
Cuộc sống đời tư của Alfred Nobel
Ngay cả khi Nobel đang xây dựng tài sản ngành công nghiệp chất nổ của mình, anh em Ludvig và Robert của ông cũng trở nên giàu có nhờ phát triển các mỏ dầu dọc theo bờ biển Caspi. Bằng cách đầu tư vào các doanh nghiệp dầu mỏ của anh em mình, Nobel thậm chí còn thu được khối tài sản lớn hơn.
Với các công việc kinh doanh ở Châu Âu và Châu Mỹ, nhà phát minh đã đi suốt cuộc đời nhưng vẫn duy trì một ngôi nhà ở Paris từ năm 1873 đến năm 1891. Mặc dù đạt được những thành công không thể phủ nhận trong cả lĩnh vực phát minh và kinh doanh của mình, Nobel vẫn là một người ẩn dật, người đã trải qua thời kỳ trầm cảm.
Đúng với niềm yêu thích suốt đời của mình đối với văn học, ông đã viết thơ, tiểu thuyết và kịch, một số ít trong số đó đã được xuất bản. Một người theo thuyết bất khả tri thời trẻ, Nobel trở thành một người vô thầntrong cuộc sống sau này của mình.
Tuy nhiên, trong những năm ở Paris, Nobel là một tín đồ Luther thực hành , thường xuyên tham dự Nhà thờ Thụy Điển ở nước ngoài, do mục sư Nathan Söderblom, người nhận giải Nobel Hòa bình năm 1930, lãnh đạo.
Về mặt chính trị, trong khi Nobel được những người đương thời coi là một người tiến bộ, ông có thể được mô tả tốt nhất là một nhà tự do cổ điển , thậm chí có thể là một người theo chủ nghĩa Tự do . Ông phản đối việc cho phép phụ nữ bỏ phiếu và thường bày tỏ sự không tin tưởng vào nền dân chủ và nền chính trị vốn có của nó như một cơ chế lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ.
Là một người theo chủ nghĩa hòa bình, Nobel thường bày tỏ hy vọng rằng mối đe dọa đơn thuần về sức mạnh hủy diệt từ những phát minh bùng nổ của ông sẽ mãi mãi chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, ông vẫn bi quan về sự sẵn sàng và khả năng duy trì hòa bình vĩnh viễn của nhân loại và các chính phủ.
Nobel chưa bao giờ kết hôn, có thể sợ rằng các mối quan hệ lãng mạn có thể cản trở mối tình đầu của ông – sự sáng tạo. Tuy nhiên, ở tuổi 43, ông đã tự quảng cáo mình trên một tờ báo rằng: “Quý ông cao tuổi giàu có, học thức cao đang tìm kiếm một phụ nữ ở độ tuổi trưởng thành, thông thạo ngôn ngữ, làm thư ký và giám sát gia đình”.
Một phụ nữ Áo tên là Bertha Kinsky đã trả lời quảng cáo, nhưng hai tuần sau, cô ấy quay lại Áo để kết hôn với Bá tước Arthur von Suttner. Bất chấp mối quan hệ ngắn ngủi của họ, Nobel và Bertha von Suttner vẫn tiếp tục trao đổi thư từ với nhau.
Sau đó, trở nên tích cực trong phong trào hòa bình, Bertha đã viết cuốn sách nổi tiếng năm 1889 “Hãy nằm xuống vòng tay của bạn”. Người ta tin rằng Nobel có thể đã cố gắng biện minh cho những phát minh của mình với Bertha với lý do rằng ông có thể tạo ra một thứ gì đó có sức hủy diệt và khủng khiếp đến mức nó sẽ ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh mãi mãi.
Di sản Alfred Nobel để lại cho hậu thế
Ý chí gây nhiều tranh cãi của Nobel đã bị phản đối trước tòa bởi những người thân bất mãn của ông. Hai người thi hành công vụ được chọn của anh ấy sẽ mất 4 năm để thuyết phục tất cả các bên rằng mong muốn cuối cùng của Alfred nên được tôn trọng.
Năm 1901, các giải Nobel đầu tiên về vật lý, hóa học, sinh lý học hoặc y học, và văn học đã được trao ở Stockholm, Thụy Điển, và giải Hòa bình tại Oslo, Na Uy.
Nobel không bao giờ giải thích lý do tại sao ông chọn thừa kế tài sản của mình để thiết lập các giải thưởng cùng tên. Luôn luôn là một nhân vật khá kín tiếng, anh ta hầu như vẫn bị cô lập trong những ngày trước khi chết. Tuy nhiên, có thể một sự việc quái đản vào năm 1888 có thể đã thúc đẩy ông. Năm đó, anh trai ông trùm ngành dầu khí của Nobel, Ludvig đã qua đời tại Cannes, Pháp.
Một tờ báo nổi tiếng của Pháp đã đưa tin về cái chết của Ludvig, nhưng lại nhầm lẫn anh ta với Alfred, in dòng tiêu đề chói lọi “Le marchand de la mort est mort” (“Kẻ buôn người chết”). Đã làm việc rất chăm chỉ trong suốt cuộc đời của mình để thể hiện bản thân là một người theo chủ nghĩa hòa bình, Nobel đã rất tức giận khi đọc những gì có thể viết về ông trong cáo phó tương lai của mình.
Anh ta có thể đã tạo ra các giải thưởng để tránh bị gán cho cái mác là một kẻ hâm mộ.
Cũng có bằng chứng cho thấy mối quan hệ lâu dài và gần gũi của Nobel với nhà hòa bình người Áo nổi tiếng Bertha von Suttner đã ảnh hưởng đến việc ông thành lập giải thưởng được trao cho những đóng góp cho hòa bình.
Thật vậy, di chúc của Noble nói rõ ràng rằng Giải thưởng Hòa bình nên được trao cho người trong năm trước đó “sẽ làm nhiều nhất hoặc công việc tốt nhất cho tình huynh đệ giữa các quốc gia, cho việc bãi bỏ hoặc giảm các quân đội thường trực, cho việc nắm giữ và thăng cấp của các đại hội hòa bình.”
Tổng hợp