Trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, Phú Xuân – Huế – Thuận Hóa là vùng đất gắn liền với triều đại Tây Sơn, một vương triều đã làm nên những chiến công hiển hách vào cuối thế kỷ thứ XVIII, mà công lao vĩ đại trước hết thuộc về người Anh hùng dân tộc lỗi lạc Nguyễn Huệ – Quang Trung.
Ngày 25/11 năm Mậu Thân (22/12/1788), trên đất Phú Xuân đã diễn ra một sự kiện trọng đại: Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Quang Trung.
Sau lễ đăng quang một ngày, ngày 26 tháng 11 năm Mậu Thân (23/12/1788), Quang Trung ra lệnh xuất quân tiến ra Bắc, đại phá quân Thanh lập nên chiến công mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 vang dội, giải phóng kinh thành Thăng Long, đánh đuổi 29 vạn quân Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Nhân kỷ niệm 234 năm Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và xuất binh ra Bắc đại phá quân Thanh, chúng ta cùng nhìn lại những cống hiến và công trạng của hoàng đế Quang Trung “giúp dân dựng nước” sống mãi với non sông xã tắc, mãi là niềm tự hào, kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.
1. Quang Trung cùng Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa:
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ được biết đến với tên gọi Tây Sơn tam kiệt, là những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Trong giai đoạn đầu, Nguyễn Nhạc là người khởi xướng, cầm đầu và là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa.
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cùng anh tham gia công việc chuẩn bị khởi nghĩa, trước hết là tập hợp lực lượng và xây dựng căn cứ trên Tây Sơn thượng đạo từ năm 1771. Đây là vùng đất mà tổ bốn đời của anh em Tây Sơn từ giữa thế kỷ XVII đã từng khai hoang, lập ra ấp Tây Sơn nhất (thôn An Khê, thị trấn An Khê, Gia Lai).
Năm 1773, Nguyễn Nhạc bắt đầu mở cuộc tấn công xuống Tây Sơn hạ đạo, khởi đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang. Ngay trong năm 1773, Nguyễn Nhạc dùng mưu hạ thành Quy Nhơn và sau đó nhanh chóng giải phóng cả một vùng rộng lớn từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
Đến cuối năm 1775, quân Tây Sơn đã làm chủ cả vùng đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Từ đó, Nguyễn Nhạc dồn sức mở những cuộc tấn công vào quân Nguyễn ở Gia Định và giải phóng toàn bộ Gia Định vào năm 1783.
Năm 1776, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự lập làm Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, mở rộng thành Đồ Bàn làm kinh đô gọi là thành Hoàng Đế.
Trong giai đoạn đầu này, Nguyễn Huệ là một tướng lĩnh dưới trướng của Nguyễn Nhạc nhưng đã thể hiện rõ tài năng và cống hiến của mình.
Từ năm 1771 đến năm 1783, Nguyễn Huệ đã cùng anh xây dựng lực lượng khởi nghĩa và trở thành một tướng lĩnh cao cấp, tài ba của quân Tây Sơn. Trong bộ chỉ huy của Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giữ chức phụ chính.
Trong triều Thái Đức, Nguyễn Huệ giữ chức Long Nhương tướng quân. Trong năm lần quân Tây Sơn tiến công vào Gia Định từ năm 1776 đến năm 1783, Nguyễn Huệ tham gia chỉ huy ba lần vào năm 1777, 1780, 1783.
2. Lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh:
Cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm năm 1784 và quân Thanh năm 1788 tạo thành mối đe dọa từ hai phía Bắc, Nam của đất nước. Nước ngoài tiến hành xâm lược trong bối cảnh các thế lực chính trị trong nước đang tranh giành quyết liệt, hết Trịnh – Nguyễn phân tranh đến cuộc đấu tranh Tây Sơn – Nguyễn rồi Tây Sơn – Lê.
Một bộ phận lực lượng chính trị suy bại trong nước đi cầu cứu ngoại viện, tạo chỗ dựa và tăng thêm lực lượng cho quân xâm lược nước ngoài.
Đặt trong bối cảnh và thách thức nguy hiểm như thế mới thấy hết cống hiến lịch sử vô cùng lớn lao của Tây Sơn. Phong trào Tây Sơn đã thực hiện thành công sứ mạng bảo vệ độc lập dân tộc, đánh bại quân xâm lược từ hai phía Nam và Bắc của đất nước mà người trực tiếp tổ chức và lãnh đạo kháng chiến thắng lợi là Nguyễn Huệ.
Trong kháng chiến chống Xiêm (1784 -1785), số quân Xiêm tiến vào Gia Định là 5 vạn quân, ngoài 2 vạn quân thủy và 300 chiến thuyền tiến theo đường biển như Đại Nam thực lục tiền biên đã chép, còn 3 vạn quân bộ từ Chân Lạp tiến xuống. Bị quân Tây Sơn chặn đánh quyết liệt nên từ khoảng tháng 7 đến cuối năm 1784, quân Xiêm chỉ chiếm được nửa đất phía tây Gia Định.
Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đem đại quân vượt biển vào Gia Định tổ chức phản công đuổi quân giặc ra khỏi đất nước. Nguyễn Huệ đã bày ra một thế trận hết sức bất ngờ, lợi hại, nhử quân địch vào một trận địa mai phục bố trí sẵn trên sông Mỹ Tho khoảng giữa Rạch Gầm – Xoài Mút.
Tại đây, đêm ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 12 năm Giáp Thìn (tức đêm 18 rạng ngày 19/1/1785), quân Tây Sơn đã đánh tan quân Xiêm, tiêu diệt đại bộ phận, số tàn quân địch thoát chết tháo chạy về nước chỉ còn khoảng hơn 1 vạn quân. Dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, trận quyết chiến Rạch Gầm – Xoài Mút chỉ diễn ra trong khoảng một ngày.
Đó là chiến thắng chống ngoại xâm quy mô lớn đầu tiên diễn ra trên vùng đất cực nam của đất nước. Với thắng lợi này, khởi nghĩa Tây Sơn đã vươn lên làm nhiệm vụ dân tộc và phong trào Tây Sơn đã phát triển thành phong trào dân tộc. Chuyển biến quan trọng đó có tác động tăng cường và mở rộng ảnh hưởng của phong trào Tây Sơn, nâng cao uy danh của Nguyễn Huệ.
Kháng chiến chống Thanh (1788 – 1789) diễn ra trong bối cảnh phức tạp và so sánh lực lượng ác liệt hơn nhiều. Nhân sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, nhà Thanh điều động đại quân sang xâm chiếm nước ta dưới danh nghĩa giúp vua Lê.
Nhà Thanh dưới triều Thanh Cao Tông với niên hiệu Càn Long (1736 – 1796) và một vương triều thịnh đạt của một đế chế lớn mạnh. Số quân Thanh xâm lược lên đến 29 vạn, trong lúc đó số quân Tây Sơn đồn trú ở Thăng Long và Bắc Hà ước tính chỉ 1 vạn quân và các thế lực theo nhà Lê lại nổi dậy nhiều nơi.
Lực lượng Tây Sơn từ giữa năm 1786 đã bị phân liệt làm ba vùng: Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế đóng ở thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản vùng Gia Định và Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương đóng ở Phú Xuân. Năm 1787, Nguyễn Ánh đã chiếm lại thành Gia Định.
Trong bài Chiếu tức vị, Nguyễn Huệ đã nói rõ tình hình đất nước lúc đó: “Trẫm dựng lại họ Lê nhưng vua Lê nối ngôi không giữ được xã tắc, bỏ nước bôn vong. Sĩ dân Bắc Hà không theo về họ Lê lại dựa vào Trẫm. Đại huynh thì mỏi mệt, chỉ muốn giữ một phủ Quy Nhơn, nhún mình xưng làm chúa miền Tây”.
Trong bối cảnh đó, “ứng mệnh trời, thuận lòng người”, ngày 22/12/1788 (ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân), tại núi Bân lịch sử, danh tướng thiên tài Nguyễn Huệ đã cho xây đàn tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung năm thứ nhất, rồi hạ lệnh xuất quân ra Bắc – một cuộc hành quân thần tốc, mãi mãi được lịch sử ca ngợi như một sáng tạo đặc sắc của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ – Quang Trung.
Với lối đánh chủ động, liên tục tấn công, thần tốc, bất ngờ, táo bạo và mãnh liệt, đêm 30 Tết – Xuân Kỷ Dậu, Hoàng đế Quang Trung và đoàn quân Tây Sơn bắt đầu mở cuộc tiến công như vũ bão vào các vị trí cố thủ của địch.
Đến mờ sáng mồng 5 tết Kỷ Dậu (30/01/1789), đại quân Tây Sơn đã mở cuộc tổng công kích vào đồn Ngọc Hồi – Đống Đa và giải phóng kinh thành Thăng Long; đánh tan cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Thanh, giữ vững nền độc lập và chủ quyền quốc gia; tạo nên chiến thắng hiển hách, vang dội trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Chiến thắng oai hùng trước 5 vạn quân Xiêm và 29 vạn quân Thanh, tướng quân Nguyễn Huệ rồi Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ đã trở thành anh hùng dân tộc, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng của nước ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, ghi vào lịch sử dân tộc những trang sử vàng chói lọi.
3. Chấm dứt tình trạng phân liệt Đàng Trong – Đàng ngoài, đặt cơ sở khôi phục thống nhất quốc gia:
Sau khi lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong và đánh bại quân Xiêm, ngày 28 tháng 4 năm Bính Ngọ (25/5/1786), Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, đánh Phú Xuân, chiếm Thuận Hóa, đánh lui quân Trịnh, giải phóng toàn bộ đất Đàng Trong.
Ngày 4 tháng 5 năm Bính Ngọ (ngày 10/6/1786), Nguyễn Huệ hạ thành Phú Xuân rồi nhanh chóng tiến ra vùng ranh giới bờ nam sông Gianh.
Mục tiêu của Nguyễn Nhạc là củng cố phòng tuyến ở bờ nam sông Gianh, có nghĩa là chỉ giới hạn hoạt động của phong trào Tây Sơn trong phạm vi Đàng Trong và chấp nhận tình trạng phân liệt Đàng Trong – Đàng ngoài đã kéo dài trên hai thế kỷ.
Tuy nhiên, sau khi nắm chắc tình hình Bắc Hà và cân nhắc mọi nhẽ, Nguyễn Huệ đã tự quyết định đưa quân ra Đàng Ngoài dưới danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”. Đó là một quyết đoán táo bạo chứng tỏ tầm nhìn và ý chí của Nguyễn Huệ.
Thủy quân Tây Sơn vượt biển đánh chiếm Vị Hoàng (Nam Định) rồi tiến lên Thăng Long. Chỉ trong vòng 10 ngày quân Tây Sơn đã đánh tan quân Trịnh, đến ngày 26 tháng 6 năm Bính Ngọ (21/7/1786) chiếm thành Thăng Long.
Ngày 7 tháng 7 năm Bính Ngọ (ngày 31/7/1786), Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông tại điện Kính Thiên, trình bày lẽ diệt Trịnh. Vua Lê phong Nguyễn Huệ làm Nguyên súy dực chính phù vận Uy quốc công và gả công chúa Ngọc Hân.
Trong thời gian ở Thăng Long, Nguyễn Huệ đã dự đám tang vua Lê Hiển Tông, lễ đăng quang vua Lê Chiêu Thống, đồng thời lo ổn định tình hình chính trị Bắc Hà.
Có thể khẳng định, phong trào Tây Sơn đã có một số cống hiến đáng kể trên con đường lập lại nền thống nhất quốc gia: Thứ nhất là xóa bỏ tình trạng phân liệt Đàng Trong – Đàng ngoài kéo dài trên hai thế kỷ; thứ hai là lật đổ chính quyền chúa Nguyễn và chúa Trịnh. Trong hai cống hiến đó, lực lượng quyết định là phong trào Tây Sơn và người tổ chức, lãnh đạo thành công là Nguyễn Huệ.
4. Sáng lập một vương triều Tây Sơn tiến bộ:
Tiếp quản Phú Xuân năm 1786 rồi lên ngôi hoàng đế năm 1788, Nguyễn Huệ bắt tay vào công cuộc xây dựng và cải cách của mình. Từ đây, Phú Xuân trở thành kinh đô của cả nước.
Tại kinh đô Phú Xuân, Quang Trung lo củng cố nội trị, xây dựng một vương triều mạnh, một bộ máy chính quyền chặt chẽ và có năng lực. Ông thiết lập đơn vị hành chính có trấn rồi đến phủ, huyện, dưới là tổng và xã.
Trước tình hình chính trị còn phức tạp ở Bắc Hà, Quang Trung đổi Thăng Long làm Bắc Thành là trị sở của một đơn vị hành chính đặc biệt gồm cả 11 trấn với quyền hạn khá lớn.
Ngoài các tướng lĩnh của quân đội Tây Sơn, Quang Trung đã sử dụng nhiều quan lại của chính quyền cũ và ra sức thu nạp nhân tài, trọng dụng các sĩ phu, ban Chiếu hiệu dụ các quan văn võ triều cũ, chiếu cầu hiền. Nhiều trí thức tài năng đã trở thành những quan lại trung thành của vương triều mới như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp…
Quân đội và quốc phòng được Quang Trung đặc biệt quan tâm. Đó là lực lượng quân sự hùng hậu gồm bộ binh, kỵ binh, tượng binh, pháo binh và thủy binh được tổ chức quy củ, trang bị tốt, có sức chiến đấu cao. Nhờ vậy, Quang Trung đã trấn áp thành công các thế lực chống đối của một số cựu thần nhà Lê ở Bắc Hà.
Với bộ máy chính quyền hùng mạnh, Quang Trung đã thực thi nhiều chính sách cải cách về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục theo hướng khắc phục hậu quả chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn định trật tự xã hội…
Việc ban hành các chiếu cầu hiền, chiếu lập học, chiếu khuyến nông, chiếu mở khoa thi, chiếu dụ các quan văn võ của triều cũ, thành lập Quốc sử quán năm 1790 nhằm cung cấp kiến thức lịch sử – văn hóa cho toàn dân và thành lập Viện Sùng Chính năm 1791 phụ trách giáo dục, biên soạn dịch chú các bộ Tiểu học, tứ thư, ngũ kinh ra chữ Nôm…đã mở ra một thời kỳ mới của lịch sử Việt Nam nói chung và Phú Xuân nói riêng.
Trong thời gian ngắn ngủi 4 năm kể từ khi lên ngôi hoàng đế sáng lập vương triều cho đến khi từ trần, công cuộc canh tân dựng nước cùng với những hoài bão lớn lao của Quang Trung chưa được thực hiện đầy đủ và chưa phát huy hết tác dụng nhưng đã cho thấy tầm vóc, tài năng, ý chí của hoàng đế Quang Trung.
Tài năng của Quang Trung bao quát trên nhiều mặt nhưng lĩnh vực tỏa sáng nhất là quân sự. Ông đã đưa tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên một đỉnh cao mới. Tinh thần tiến công mãnh liệt, lối đánh thần tốc, bất ngờ là nét nổi bật nhất trong tư tưởng và nghệ thuật quân sự của Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, từ tuổi 18 tham gia khởi nghĩa cho đến lúc từ trần ở tuổi 39, Nguyễn Huệ chỉ có thắng, chưa hề bại và ghi vào sử sách nhiều chiến công chói lọi.
Từ năm 1789 đến năm 1801, Phú Xuân là kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt thời Tây Sơn và là trung tâm chính trị, là nơi hội tụ nhân tài, vật lực và tinh hoa của cả đất nước.
Những dấu ấn lịch sử về một vương triều đã có công phục hưng tư thế hiên ngang của quốc gia Đại Việt, với niềm kiêu hãnh “Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” vẫn còn âm vang và tồn tại mãi trên đất Phú Xuân – Thuận Hóa xưa, Thừa Thiên Huế ngày nay; trong đó có di tích lịch sử núi Bân, phường An Tây, thành phố Huế đã được Chính phủ công nhận di tích cấp quốc gia vào năm 1988.
Nơi đây mãi mãi là địa chỉ lịch sử linh thiêng, là di tích lịch sử đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Huế.
Theo Báo Thành Phố Huế