Chúng ta thường gọi những người có lòng tốt, hay làm từ thiện, hay giúp đỡ người khác là Mạnh Thường Quân. Câu chuyện dưới đây liên quan đến gốc tích nhân vật này là một bài học quý, đáng để mọi người suy ngẫm.
Từ điển tiếng Việt (NXB Đà Nẵng, 2007) có một mục từ Mạnh Thường Quân với hai nghĩa: một là người “rất giàu có, yêu trọng hiền tài và hay dùng tiền bạc để làm việc nghĩa”; hai là “dùng để chỉ người giúp đỡ về mặt tài chính cho một công việc chung, một tổ chức…”.
Hãy cùng vặn ngược kim đồng hồ về ngược lại 2500 năm trước khi Trung Quốc đang ở thời kỳ “Chiến Quốc”. Đó là lúc thiên hạ rối ren, loạn lạc, mỗi chư hầu nổi dậy cát cứ một nơi. Mạnh nhất có 7 nước: Tần, Sở, Tề, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ, gọi là “Thất hùng”, liên tục xảy ra tranh chấp quân sự.
Dù chiến loạn liên miên nhưng đây lại là một trong những thời kỳ phát triển rất rực rỡ của văn minh, học thuật, kỹ thuật. Đồng thời Chiến Quốc cũng là thời đại sản sinh ra rất nhiều bậc anh hùng, văn võ thao lược.
Người ta thường nhắc đến “Tứ đại công tử” thời Chiến Quốc bao gồm: Mạnh Thường Quân nước Tề, Bình Nguyên Quân nước Triệu, Tín Lăng Quân nước Nguỵ và Xuân Thân Quân nước Sở. Trong số đó, Mạnh Thường Quân chính là người hoạt động sớm nhất.
Chiêu hiền đãi sĩ
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn (? – 279 TCN), con trai của Tướng quốc Điền Anh, người nước Tề thời Chiến Quốc. Sau khi thân phụ qua đời, ông cũng được phong làm Tướng quốc, ăn lộc ở đất Tiết.
Vốn là người nghĩa hiệp, thích kết giao, Mạnh Thường Quân có lúc nuôi tới 3000 người trong nhà. Phàm là những người tìm đến Mạnh Thường Quân xin tá túc đều được ông cung phụng đầy đủ, ít nhất cũng có cơm ăn, áo mặc. Những người này được gọi với một cái tên là “thực khách”.
Danh tiếng của Mạnh Thường Quân nhờ thế vang khắp thiên hạ. Môn khách kéo đến với ông mỗi lúc một nhiều. Do đó, ở nước Tề, ông trở thành nhân vật có sức ảnh hưởng lớn nhất, thậm chí còn vượt quá cả vua Tề.
Các nước khác thấy Tề có Mạnh Thường Quân nuôi đến hàng nghìn nhân tài trong nhà nên cũng không dám manh động cử binh tiến đánh.
Món quà của Phùng Hoan
Trong số 3000 thực khách của Mạnh Thường Quân có một người tên là Phùng Hoan. Người này bình thường không có tài gì nổi bật nhưng vốn tính trung hậu, đáng tin.
Nguyên trong nhà Mạnh Thường Quân nuôi đến hàng ngàn thực khách, chi tiêu, ăn uống cũng là một vấn đề. Mạnh Thường Quân đành phải cho dân ở ấp Tiết (đất phong của mình) vay nợ lãi để lấy thêm thu nhập. Một hôm, quản gia dâng sổ sách lên báo với Mạnh Thường Quân rằng số tiền trong nhà chỉ còn đủ chi dùng trong 1 tháng.
Mạnh Thường Quân gọi Phùng Hoan đến, giao cho đi lấy nợ lãi ở ấp Tiết. Trước khi đi Phùng Hoan hỏi: “Lần này thu nợ về xong, chủ nhân có cần mua thêm gì về không?”. Mạnh Thường Quân trả lời vu vơ: “Ngươi thấy trong nhà còn thiếu thứ gì thì cứ mang về đây vậy!”.
Phùng Hoan đến nơi, thấy rằng những người mắc nợ đều là dân nghèo bèn ra lệnh đốt sạch sổ sách ghi nợ. Ông cho gọi dân ấp Tiết đến và bố cáo rằng: “Mạnh Thường Quân cho vay nợ không phải vì lợi lộc mà muốn để mọi người mưu sinh, lập nghiệp.
Mạnh Thường Quân có mấy ngàn khách ăn trong nhà, chi dùng không đủ nên bất đắc dĩ mới phải đòi nợ lãi để nuôi khách. Nay người có tiền đã lập văn tự hứa trả còn người nghèo khổ không thể trả thì miễn cho. Mạnh Thường Quân làm ơn cho dân ấp Tiết như thế quả là hậu!”. Dân chúng nghe xong đều sụp xuống lạy tạ, tôn Mạnh Thường Quân như cha mẹ.
Phùng Hoan trở về yết kiến Mạnh Thường Quân. Nghe chuyện ông tự tiện đốt văn tự ghi nợ, Mạnh Thường Quân giận lắm, nói: “Nay mấy nghìn thực khách ăn không đủ cung ứng. Ông lại đem hết giấy tờ ghi nợ đốt bỏ đi. Vậy ý là làm sao?”.
Phùng Hoan bình thản nói: “Trước khi đi, chủ nhân có dặn nhà thiếu thứ gì thì mua về. Nay tôi thấy trong nhà tiền bạc, mỹ nữ đều có đủ cả, chỉ thiếu nhân nghĩa mà thôi. Chuyến này tôi đi là dùng số tiền nợ kia mua về nhân nghĩa cho chủ nhân vậy!”.
Mạnh Thường Quân nín lặng, đành bỏ qua nhưng trong lòng vẫn còn cảm thấy không thoải mái lắm. Về sau, có người gièm pha Mạnh Thường Quân với vua Tề. Vua Tề bèn cách chức ông, thu ấn tướng quốc, chỉ cho về ấp Tiết ăn lộc.
Lúc này, môn khách của Mạnh Thường Quân cũng tản mát đi cả. Duy chỉ có Phùng Hoan vẫn ở lại bên cạnh, cầm cương đánh xe cho Mạnh Thường Quân.
Khi vừa trở về ấp Tiết, dân chúng không quản ngại, lặn lội ra ngoài trăm dặm đón Mạnh Thường Quân, lại còn dâng cơm rượu, chúc tụng, nhắc đến chuyện nhân nghĩa xưa kia.
Mạnh Thường Quân khi ấy mới hiểu được điều mà Phùng Hoan làm ngày trước, quay lại nói: “Ta thực quá hồ đồ, khi xưa còn trách móc ông. Giờ mới hiểu được nhân nghĩa mà ông mua cho ta nghĩa là thế nào”.
Nhân nghĩa là gốc của đạo làm người
Nhân nghĩa luôn là cái gốc của đạo xử thế, đạo làm người. Đó cũng là giá trị mà Nho gia gìn giữ suốt hàng nghìn năm qua. Mạnh Thường Quân nghĩa hiệp, sẵn sàng cưu mang hàng nghìn khách lạ trong nhà, không phân biệt sang hèn.
Rất nhiều môn khách có thân phận tưởng thấp kém, tầm thường. Nhưng đôi khi chính họ đã trở thành “cứu tinh” cho Mạnh Thường Quân như câu chuyện đã kể ở trên.
Nhân nghĩa đôi khi không thể tính đếm được bằng con số, không thể đo lường được bằng bạc tiền. Phùng Hoan đã dạy Mạnh Thường Quân một bài học thấm thía về đạo nghĩa làm người.
Phùng Hoan đã đổi một số tiền nợ có hạn để thu về một giá trị vô hạn: nhân tâm. Mạnh Thường Quân có thể mất đi công danh, chức tước và bổng lộc.
Nhưng cái được của ông là lòng người. Đó là giá trị mà suốt hàng nghìn năm qua, biết bao anh hùng luôn mong muốn có được. Bởi lẽ, đắc được nhân tâm thì sẽ có cả thiên hạ.
Ở một ý nghĩa khác, câu chuyện của Mạnh Thường Quân cũng cho thấy bài học sâu sắc về lẽ hành xử ở đời. Trong cuộc sống, không phải lúc nào bạn cũng được thuận buồm, xuôi gió. Dù là ở trong hoàn cảnh nào, giàu sang hay nghèo khổ, phú quý hay tủi nhục, hãy luôn giữ vững thiện niệm và lòng nhân nghĩa, tranh thủ tích đức, hành thiện.
Đến khi sa cơ lỡ vận, bạn có thể mất tất cả nhưng phúc đức và nhân nghĩa lưu lại sẽ trở thành tài sản đáng quý nhất nâng đỡ chúng ta đi tiếp chặng đường dài.
Một góc nhìn khác quanh từ “mạnh thường quân”
Đọc Sử ký của Tư Mã Thiên (Phạm Văn Ánh dịch) và Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long (Nguyễn Đỗ Mục dịch) thì thấy trong số đó có vài mưu sĩ, du thuyết, thám tử, nhiều võ sĩ và lưu manh lêu lổng không chịu làm ăn, tội phạm.
Ông nuôi họ để họ giúp ông tạo danh tiếng, giữ mạng, giữ ghế và đi đòi nợ cho ông. (Theo Lịch sử lưu manh, Cao Tự Thanh dịch, NXB Trẻ, 2002).
“Việc nghĩa” gần như duy nhất được gán cho Mạnh Thường Quân là đốt giấy vay nợ của dân nghèo đất Tiết.
Tuy nhiên, đó không phải là chủ ý của ông mà do Phùng Hoan, tân khách của ông, tự làm để “bỏ thứ không thể đòi khiến dân ấp Tiết thân với ngài, ngài cũng tỏ được tiếng tốt” (Theo Tư Mã Thiên: Sử ký, Phạm Văn Ánh dịch, NXB Văn Học, 2016).
Trước đó, Mạnh Thường Quân sai Phùng Hoan đi đòi tiền lời dân đất Tiết, nhằm lấy tiền nuôi thực khách trong nhà ông.
Người yêu trọng hiền tài và hay làm việc nghĩa thì không can dự vào việc giết người vô tội. Ấy nhưng, nói theo ngôn ngữ luật pháp hiện hành, có thể gọi Mạnh Thường Quân là chủ mưu hoặc chí ít cũng tòng phạm giết người vô tội. “Mạnh Thường Quân qua Triệu, Bình Nguyên – quân nước Triệu – đối đãi như khách.
Người Triệu nghe nói Mạnh Thường Quân hiền năng, kéo nhau ra xem, đều cười nói: “Nghe nói Tiết công là người đường bệ, nay nhìn té ra chỉ là người đàn ông nhỏ thó”.
Mạnh Thường Quân nghe vậy, nổi giận. Tân khách đi cùng đều xuống xe, chém chết mấy trăm người, diệt một huyện rồi đi”. (Tư Mã Thiên, sách đã dẫn).
Sở dĩ có chuyện ví những người hảo tâm, trọng nghĩa Việt Nam là Mạnh Thường Quân có lẽ do chân dung đầy đủ của Mạnh Thường Quân xuất hiện ở Việt Nam quá trễ.
Các bản dịch Sử ký ra tiếng Việt từ 1944 đến mười mấy năm đầu thế kỷ 21 đều chưa dịch phần Mạnh Thường Quân liệt truyện.
Trong khi đó, Mạnh Thường Quân hiện ra chỉ toàn phần sáng trong tiểu thuyết chương hồi Đông Chu liệt quốc từ bản dịch năm 1938 và tái bản nhiều lần.
Dù nguyên do thế nào, theo người viết, việc ví những nhà hảo tâm Việt Nam như Mạnh Thường Quân là không phù hợp.
Từ “mạnh thường quân” đã được Việt hóa lâu đời
Vấn đề nội dung ý nghĩa và nguồn gốc từ ngữ tiếng Việt xuất phát từ các điển tích, điển cố nước ngoài là hiện tượng giao thoa, tiếp biến ngôn ngữ bình thường giữa tiếng Việt và nhiều nước khác như Trung, Pháp, Anh, Nga… trong quá trình giao lưu văn hóa suốt trường kỳ lịch sử.
Trong đó, vốn văn hóa Trung Hoa qua hàng ngàn năm lịch sử đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa nước ta.
Do đó hiện nay, khá nhiều từ Hán Việt có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa, cộng đồng người Việt vẫn hằng sử dụng mà không mấy quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ của nó.
Nhiều từ ngữ vốn là tên riêng của các nhân vật lịch sử hay nhân vật văn học Trung Hoa, qua quá trình sử dụng lâu dài, du nhập tự nhiên vào ngôn ngữ tiếng Việt, nay đã được “chung hóa” (không viết hoa) thành từ tiếng Việt như: đạo chích, sở khanh, thạch sùng, mạnh thường quân…
Do đó, chúng ta có thể dùng các từ nêu trên với nghĩa hiện hữu trong tiếng Việt, ví dụ: “mạnh thường quân: người hay giúp đỡ cho một việc chung, một tổ chức” [1091, Đại từ điển tiếng Việt], mà không nhất thiết phải băn khoăn về nguồn gốc điển tích, tìm hiểu cặn kẽ xuất xứ, cũng không cần áy náy về việc gây tổn thương cho đối tượng áp dụng.
Tất nhiên, trong những ngữ cảnh cụ thể, có thể thay từ “mạnh thường quân” bằng từ “nhà hảo tâm”, “nhà từ thiện”…, nhưng rõ ràng biên độ nghĩa của các từ trên không hoàn toàn trùng khớp với nhau, mỗi từ mang sắc thái ngữ nghĩa tinh tế khác nhau, không thể thay thế cho nhau trong mọi trường hợp.
Theo Tuổi trẻ