Mạc Đĩnh Chi - Từ cậu bé bán củi nghèo thành lưỡng quốc trạng nguyên lừng lẫy sử Việt

Nổi tiếng ham học, nhà không có tiền để đến trường, mua đèn dầu thắp sáng, Mạc Đĩnh Chi bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng, đứng bên ngoài nghe thầy giảng bài, học đâu nhớ đó. Lớn lên, ông đỗ Trạng Nguyên, hai lần đi sứ nhà Nguyên, làm quan đến chức Tả bộc xạ.

Theo tài liệu của các nhà sử học Đinh Xuân Lâm và Trương Hữu Quýnh, Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1272 trong gia đình nghèo, mồ côi cha từ nhỏ. Hàng ngày, hai mẹ con phải vào rừng đốn củi bán. Mẹ ông đã hy sinh tất cả để nuôi con ăn học. Bà chỉ mong con thoát cảnh nghèo, có thể thi cử đỗ đạt, giúp ích cho đời. Hiểu được lòng mẹ, Mạc Đĩnh Chi không ngừng gắng sức học tập.

Theo sách Những tấm gương hiếu học xưa và nay, Mạc Đĩnh Chi đọc sách gần như mọi lúc, mọi nơi, kể cả lúc kiếm củi.

Ông thức dậy từ rất sớm, vào rừng lấy củi xong mới về học tiếp. Nhiều lần, Mạc Đĩnh Chi đến lớp muộn, thầy giáo hiểu được hoàn cảnh của học trò nên không trách phạt. Nhiều hôm, thầy còn bảo Mạc Đĩnh Chi ở lại làm thêm việc, cốt để ông được ăn bữa no. Mạc Đĩnh Chi mượn sách của thầy và bạn để học. Không có tiền mua nến, ông đốt củi, lá cây để đọc sách.

Ngay từ khi còn nhỏ Mạc Đĩnh Chi đã ông đã rất thông minh, lanh lợi. Ông đã ra sức học tập vì ông biết chỉ có học vấn mới giúp ông thoát khỏi cảnh sống nghèo hèn. Với tài văn chương của mình, ông được Chiêu Quốc Vương nhận là môn đồ, chu cấp tiền cho ăn học thành tài.

Mạc Đĩnh Chi - Từ cậu bé bán củi nghèo thành lưỡng quốc trạng nguyên lừng lẫy sử Việt

Nổi tiếng ham học, thanh liêm

Năm 1304, vua Trần Anh Tông mở khoa thi để kén người tài trong bốn cõi. Năm ấy, ông thi đỗ Trạng Nguyên với điểm loại ưu.

Ngày nhà vua ban cho mũ áo, rất ngạc nhiên thấy Mạc Đĩnh Chị chỉ là một chàng trai có vóc người nhỏ, thấp, tướng mạo xấu xí. Vua Anh Tông có ý không muốn dùng ông. Mạc Đĩnh Chỉ bực lắm, không nói gì cả, về nhà viết bài phú “Ngọc tỉnh liên hoa” (Cây sen trong giếng ngọc) ông tự ví mình như một thứ sen thần mọc trong giếng ngọc. Bài phú được đâng lên vua Anh Tông. Từng câu, từng chữ trong bài phú đã làm cho vua Anh Tông bừng tỉnh và thốt lên: “Mạc Trạng Nguyên quả là bậc thiên tài, có tiết tháo”.

Mạc Đĩnh Chi là người rất liêm khiết, thẳng thắn, được tiền không lấy làm của riêng, giàu sang phú quý đối với ông không có ý nghĩa gì, cho nên được người đời ca tụng.

Một lần, vào năm 1323, vua Trần Minh Tông cho gọi viên quan nội thị đến nói nhỏ: “Nghe nói các quan và dân chúng đều khen Mạc Đĩnh Chi là người liêm khiết, thẳng thắn lắm. Trẫm định thử xem có đúng như thế chăng?”. Nói đoạn, vua Minh Tông lấy mười quan tiền đặt vào tay viên quan nội thị, rồi ghé sát tai thì thâm to nhỏ. Viên quan nội thị tâu: “Thần sẽ làm đúng như ý bệ hạ sai bảo”.

Sáng ấy, Mạc Đĩnh Chi dậy sớm hơn thường lệ. Trời còn chưa sáng rõ, ông đã tập xong hai bài quyền. Ông vươn người hít thở không khí trong lành của buổi sớm ban mai. Xong công việc thường lệ, ông lững thững vào nhà. Vừa bước lên bậc cửa, bỗng ông kêu lên kinh ngạc: “Ô kìa! Tiền của ai đánh rơi mà nhiều thế kia?”.

Ông nhặt lên đếm, vừa tròn mười quan. Ông thầm nghĩ: “Quái! Đêm qua không có ai lại chơi, sao có tiền rơi?” Ông vội vã khăn áo chỉnh tề, vào yết kiến nhà vua. “Tâu bệ hạ, thần sáng nay có bắt được mười quan tiền ở trước cửa nhà, hỏi khắp cả mà không ai nhận, thần xin trao lại để bệ hạ trả lại kẻ mất của”.

Vua Minh Tông mỉm cười gật đầu: “Không ai nhận tiền ấy thì người cứ lấy mà dùng”. Mạc Trạng Nguyên bèn tâu: “Thưa bệ hạ, tiền này không ít, người mất của chắc xót xa lắm, nên tìm người trả lại thì hơn”. Vua mỉm cười: “Nhà ngươi yên tâm, cứ giữ lấy mà dùng. Tiền thưởng lòng chính trực, liêm khiết của nhà ngươi đấy”.

Mạc Đĩnh Chi bấy giờ mới vỡ lẽ ra là nhà vua đã thử lòng ông. Ông chào tạ ơn trở về.

Câu đối ở quan ải

Mạc Đĩnh Chi - Từ cậu bé bán củi nghèo thành lưỡng quốc trạng nguyên lừng lẫy sử Việt

Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi nhận chiếu chỉ của vua Anh Tông đi sứ nhà Nguyên. Dạo ấy vào đầu mùa hạ, tuy trời ít mưa, nhưng đã mưa thì mưa như đổ nước từ trên trời xuống; đường sá, đồng ruộng, nước trắng băng một màu, việc đi lại gặp trở ngại lớn. Chính vì vậy mà đoàn sứ bộ đến quan ải chậm mất hai ngày. Quan coi ải một mực không cho qua. Mạc Đĩnh Chỉ bực lắm, toan quay trở về, nhưng nghĩ đến mệnh vua mà mình gánh vác chưa trọn nên nán lại xin đi.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, viên quan coi ải nói: “Nghe nói ngài là người có tài văn chương, tài ấy sao không sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một vế câu đối, nếu đối thông suốt, sẽ mở cửa ải. Bằng không, xin mời ngài quay lại”.

Yên lặng giây lát, viên quan nọ hí hứng ra đối: “Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá quan. (Đến cửa ải chậm, người coi cửa đóng cửa không cho khách qua). Không cần suy nghĩ lâu, Mạc Đĩnh Chi bèn đối ngay: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối. (Ra đối thì dễ, đối lại thì khó, mời tiên sinh đối trước). Quan coi ải vái ông hai vái, tổ ý phục tài, rồi mở cửa mời đi qua.

Giải oan ở giếng nước

Một buổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa, Mạc Đĩnh Chi và mọi người lúc ấy qua một quán nước ven đường. Mạc Trạng Nguyên cho mọi người nghỉ lại. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Cách đấy không xa có giếng khơi nước trong xanh. Trên thành giếng có viết năm chữ: “Ngân bình, kiên thượng tị”. Thấy lạ, Mạc Trạng Nguyên hỏi duyên cớ. Bà cụ chậm rãi kể: “Xưa, có một cô gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thông. Gần đấy, có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống nước tìm lời trêu ghẹo.

Một hôm cô hàng nước nói thực với anh: “Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa. Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi. Bằng không, thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa”.

Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân trông thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra câu đối rằng: “Ngân bình, kiên thượng tị” (Bình ngọc, mũi trên vai. Ý nói cái vòi trên cổ ấm). Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ. Nhưng xưa nay chưa ai đối được”, bà cụ chậm rãi kể lại.

Nghe đến đây. Mạc Trạng Nguyên cười: “Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi, để ta đối giùm giải oan cho hồn kẻ thư sinh”. Mạc Đĩnh Chi bèn đọc: “Kim tỏa, phúc trung tu” (Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa).

Sau đó, Mạc bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa. Mọi người đều chịu ông đối giỏi.

Đấu trí ngay trên đất địch

Mạc Đĩnh Chi - Từ cậu bé bán củi nghèo thành lưỡng quốc trạng nguyên lừng lẫy sử Việt

Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi: Năm 1308, sứ Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên. Lúc này, việc Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên được dự báo là “đầy nguy hiểm”, bởi người phương Bắc vẫn chưa quên thất bại trong 3 cuộc xâm lược trước đây.

Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên ban đầu rất bị khinh thường vì vẻ ngoài thấp bé, xấu xí. Ở buổi tiếp kiến đầu tiên tại kinh đô Yên Kinh, vua Nguyên ra câu đối thử tài Mạc Đĩnh Chi: Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy mặt trăng. Ý nói nhà Nguyên lớn mạnh, luôn dễ dàng tiêu diệt các tiểu quốc như Đại Việt).

Mạc Đĩnh Chi liền ứng đối lại: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô (Mặt trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rụng mặt trời. Ý nói nước nhỏ cũng có thể đánh bại quân đội nước lớn). Vua Nguyên nghe xong tức lắm, nhưng cũng phải khen Mạc Đĩnh Chi đối hay, đối chuẩn.

Một hôm khác, Tể tướng nhà Nguyên mời ông vào phủ ngồi. Lúc ấy đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có bức trướng mỏng thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ ngỡ đây là con chim sẻ thực, vội chạy đến bắt.

Người Nguyên cười ồ, cho là người phương xa quê kệch. Thấy vậy, Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi tại sao.

Đĩnh Chi trả lời: “Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của Tể tướng lại thêu cành trúc với chim sẻ”.

“Trúc là bậc quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân”. Nghe vậy, mọi người đều phục tài của ông.

Một lần khác, trong thời gian Mạc Đĩnh Chi đang ở kinh đô Yên Kinh thì hay tin công chúa được vua Nguyên thương yêu nhất qua đời. Mạc Đĩnh Chi được quan nhà Nguyên cử đọc văn tế, nhưng đến khi mở ra chỉ thấy có đúng một chữ “Nhất”. Bất ngờ đến vậy song Mạc Đĩnh Chi lập tức ứng khẩu:

Thanh thiên nhất đóa vân,

Hồng lô nhất điểm tuyết,

Thượng uyển nhất chi hoa,

Dao trì nhất phiến nguyệt.

Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

(Một đám mây trên bầu trời xanh

Một bông tuyết trong lò lửa hồng

Một bông hoa trong vườn thượng uyển

Một vầng trăng ở cung Dao Trì

Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)

Chỉ với một chữ “Nhất”, Mạc Đĩnh Chi đã đọc lên bài văn tế khiến cả vua Nguyên cùng toàn thể bá quan nghe xong mắt cũng long lanh ngấn lệ.

Trở thành Lưỡng quốc Trạng Nguyên nhờ “quay bài”

Thời gian Mạc Đĩnh Chi đi sứ, trong một buổi chầu có người nước ngoài dâng quạt lên tặng vua Nguyên. Nhân có cả sứ thần Cao Ly ở đó, vua Nguyên bèn mời Mạc Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly cùng làm thơ vịnh đề lên quạt.

Lúc này Mạc Đĩnh Chi bất ngờ, không chuẩn bị trước nên có phần “bí” ý. Ông quay sang bên sứ thần Cao Ly, nhìn vào thế bút viết của sứ thần nên đoán được ông này viết: “Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công/Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề” (Khi nóng bức thì quạt đắc dụng như Y Doãn, Chu Công, khi mùa đông giá rét thì xếp xó như Bá Di, Thúc Tề bị chết đói).

Mạc Đĩnh Chi có ý tưởng rồi, liền lập tức viết: “Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho/Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu/Y, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù (Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho. Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo. Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru)”.

Về ý, bài của Mạc Đĩnh Chi cũng có ý tương tự bài của sứ Cao Ly nhưng lại “đắt” ở việc trích dẫn câu trong sách Luận ngữ, có nghĩa: “Ai dùng ta thì ta làm, ai không dùng ta thì ta để đó. Điều ấy chỉ người với ta mới có được thôi”.

Cảm phục văn tài của Mạc Đĩnh Chi, vua Nguyên liền phê lên chiếc quạt bốn chữ: “Lưỡng quốc Trạng Nguyên”.

Mạc Đĩnh Chi - Từ cậu bé bán củi nghèo thành lưỡng quốc trạng nguyên lừng lẫy sử Việt
Đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở Nam Sách (Hải Dương).

Tấm gương liêm khiết, lấy vợ Cao Ly và hậu duệ xưng đế

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi lại: Đĩnh Chi là người liêm khiết, sống rất đạm bạc. Vua rất hiểu ông, sai người ban đêm đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Hôm sau, Đĩnh Chi vào chầu, tâu vua hay chuyện đó. Vua bảo: “Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu”.

Thời Hiến Tông, Mạc Đĩnh Chi làm Nhập nội hành khiển Hữu ty lang trung rồi thăng Tả ty lang trung. Trong thời gian ở Yên Kinh, ông kết thân với sứ thần Cao Ly. Mến mộ tài năng của Mạc Đĩnh Chi, vị sứ thần này mời ông sang Cao Ly chơi và gả cháu gái cho.

Người thiếp này có một con gái, một con trai với Mạc Đĩnh Chi. Sau này hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi ở lại Cao Ly và lập ra một dòng tộc tại đó. An Nam tạp chí số 4, năm 1926 từng đăng bài của học giả Lê Khắc Hòe với tiêu đề Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi.

Tương truyền khi Mạc Đĩnh Chi ứng đối “bắn rụng mặt trời” trước bá quan văn võ nhà Nguyên, có người nói: “Hậu duệ người này tất sau này sẽ tự lập làm vua”.

Đúng như vậy, sau này cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi là Mạc Đăng Dung đã lật đổ vua Lê để lập ra nhà Mạc. Đại Việt Sử ký Toàn thư viết: Đăng Dung là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (tức là xã Long Động, huyện Chí Linh), tiên tổ Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên triều Trần, làm quan đến Tả bộc xạ.

Đĩnh Chi sinh ra Cao, Cao sinh ra Thuý, Thuý sinh ra Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Bình, Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch, Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung.

Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung truy tôn Mạc Đĩnh Chi làm Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế. Nhà Mạc tồn tại trong 150 năm, trải qua 4 đời vua.

Tổng hợp