Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

Chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người sinh ra từ chân lý. Cùng đọc lại những câu chuyện hay kể về Bác để có thể cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta.

Bác Hồ – Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hình ảnh về một vị lãnh tụ vĩ đại, đáng kính sẽ mãi vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam và cả bạn bè quốc tế.

Dưới đây là một số câu chuyện hay về Bác mà chúng tôi đã sưu tầm, hi vọng với những câu chuyện ngắn về Bác sau đây sẽ giúp bạn cảm nhận rõ hơn về vị lãnh tụ của chúng ta từ đó, biết trân trọng hơn từng phút giây được sống và làm theo lời Bác.

1. Câu chuyện 1: Bác không thăm những người như mẹ con thím thì còn thăm ai

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Thấy người lạ, mấy em quay ra nhìn tôi. Em lớn, cặp mắt như dò hỏi nhưng vẫn lễ phép:

Cháu chào Bác ạ!

Mẹ cháu đâu?

Tôi vội hỏi.

Bác ạ, bác hỏi gì cháu?

Chị Chín từ trong bếp đi ra, vai quẩy đôi thùng, có lẽ chị đi gánh nước để sớm mai khỏi bị “dông”.

Chị vừa trả lời vừa nhìn tôi hơi ngạc nhiên, tôi vội bảo:

Chị ạ, chị ở nhà…Chị Chín có vẻ lo lắng, quay lại nhìn lũ trẻ. Hình như chị lo lũ trẻ nghịch dại nên cán bộ tới chăng? Tôi vội bảo thêm:

Chị ở nhà, có khách đến thăm Tết đấy!

Vừa lúc ấy, Bác đã bước vào. Chị Chín sửng sốt nhìn Bác. Chiếc đòn gánh bỗng rơi khỏi vai chị. Chiếc thùng sắt rơi xuống đất kêu loảng xoảng. Tôi vội xếp lại hộ chị. Mấy cháu nhỏ kêu lên: “Bác, Bác Hồ” rồi chạy lại quanh Bác.

Lúc này chị Chín mới như chợt tỉnh, chị chạy tới ôm choàng lấy Bác và bỗng nhiên khóc nức nở. Đôi vai gầy sau làn áo nâu bạc rung lên từng đợt.

Bác đứng lặng, hai tay Người nhẹ vuốt lên mái tóc chị Chín. Chờ cho chị bớt xúc động, Người an ủi:

Năm mới sắp đến, Bác đến thăm thím, sao thím lại khóc?

Tuy cố nén, nhưng chị Chín vẫn không ngừng thổn thức, chị nói:

Có bao giờ… có bao giờ Chủ tịch nước lại tới thăm nhà chúng con…, mà bây giờ mẹ con chúng con lại được thấy Bác ở nhà. Con cảm động quá! Mừng quá… thành ra con khóc…

Bác nhìn chị Chín, nhìn các cháu một cách trìu mến và bảo:

Bác không tới thăm những người như mẹ con thím thì còn thăm ai?

Người xoa đầu các cháu và cho các cháu kẹo, rồi hỏi chị Chín:

Thím hiện nay làm gì?

Dạ, cháu làm phu khuân vác ở Văn Điển ạ!

Như vậy là làm công nhân chứ! Sao gọi là phu?

Vâng ạ, cháu trót quen miệng như trước kia.

Thím vẫn chưa có công việc ổn định à?

Dạ, cháu đã ngoài ba mươi tuổi, lại kém văn hoá nên tìm việc có nghề nghiệp cũng khó.

Bác quay nhìn đồng chí Phó Bí thư Thành uỷ và đồng chí Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Thành phố Hà Nội. Bác lại hỏi:

Mẹ con thím có bị đói không?

Thưa Bác, hồi Tây còn ở đây thì dẫu có cả bố cháu cũng vẫn đói ạ! Bây giờ bố cháu mất rồi, nhưng đói thì không ngại, rét cũng không lo, song việc chi tiêu thì còn chắt chiu lắm ạ!

Nói tới đây thì chị lại rơm rớm nước mắt.

Bác chỉ vào cháu lớn nhất và hỏi:

Cháu có đi học không?

Dạ, cháu đang học lớp bốn ạ! Cháu nó vất vả lắm! Sáng đi học, chiều về phải trông các em và đi bán kem, hoặc đi bán lạc rang để đỡ đần cháu… Còn cháu thứ hai thì học lớp ba, cháu thứ ba học lớp hai. Dạ, khó khăn nhưng vợ chồng cháu trước đã dốt nát, nay cũng phải cố để cho các cháu đi học.

Bác tỏ ý bằng lòng. Người ân cần dặn dò việc làm ăn và việc học tập cho các cháu. Nhân dân trong ngõ đã tới quây quần trước sân. Bác bước ra thăm hỏi và chúc Tết bà con. Mọi người cùng mẹ con chị Chín theo tiễn Bác ra xe. Khi chiếc xe từ từ lăn bánh, mấy mẹ con chị vẫy chào Bác, nhưng nét mặt chị Chín vẫn bàng hoàng như việc Bác vào thăm Tết nhà chị không rõ là thật hay hư.

Trên xe về Phủ Chủ tịch, vầng trán mênh mông của Người còn đượm những nét suy nghĩ. Tôi khẽ trình bày với Bác:

Thưa Bác, năm nay Thành uỷ Hà Nội đã đề ra mười vạn đồng trợ cấp cho các gia đình túng thiếu.

Bác quay lại nhìn tôi rồi bảo:

Bác biết, nhưng muốn cho mọi người vui Tết, trước hết phải lo cho ai cũng có việc làm. Phải chú ý những người đặc biệt khó khăn.

*Ý nghĩa câu chuyện:

Qua câu chuyện trên nhắc nhở chúng ta phải biết gần dân, quan tâm giúp đỡ những người có cuộc sống còn khó khăn vất vả, lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân, hết lòng hết sức phụng sự nhân dân.

*Bài học kinh nghiệm:

Trước hết là bài học “Lấy dân làm gốc”, bao nhiêu lợi ích cũng vì dân, việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng hết sức làm; việc gì có hại cho dân cũng hết sức tránh.

Phải rèn luyện cho mình phong cách dân chủ, gần gủi, sâu sát nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động phù hợp với thực tiễn mới được dân tin, dân yêu, dân đồng tình ủng hộ mang lại hiệu quả cao nhất.

Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh không phải là những gì cao siêu, khó thực hiện mà là những tấm gương rất gần gủi, dễ thực hiện nếu bản thân rèn luyện thường xuyên và phải rèn luyện suốt đời, sẽ ngấm dần vào máu, trở thành nhân sinh quan chỉ đạo cho hành động của mỗi người.

2. Câu chuyện 2: Hành trang giản dị

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Tư trang của một vị Chủ tịch Nước như ở Bác Hồ thật đặc biệt, bởi nó quá giản dị. Có lẽ những thế hệ mai sau khi nghe kể có thể tin được đó là huyền thoại. Đôi dép cao su làm từ lốp cũ xe hơi, Bác dùng đến mòn vẹt phải đóng đinh bao lần mà Bác vẫn dùng, đôi tất vá đến hai, ba lần, cổ áo sờn rách đã mấy lượt lộn lại trong ra ngoài…

Nếp sinh hoạt, cách ăn mặc của Bác đã thành thói quen, Người luôn có ý thức trước những việc làm đó.

Từ những năm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan, khi về Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm Chủ tịch nước. Những năm tháng đi kháng chiến, lúc về thăm nông dân gặt hái hay làm thượng khách ở nước ngoài, Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh.

Dù ở đâu lúc nào chủ tịch Hồ Chí Minh cũng để lại ấn tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang theo tự nói lên một điều chân thực.

Làm chức càng cao càng phải giản dị, làm Chủ tịch Nước, Hồ Chí Minh nhận lấy cho mình được cái quyền sống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Các đồng chí được giao việc phục vụ Bác, tìm mọi cách lo cho Bác được chu tất về mọi mặt. Nhưng Bác luôn có cái lý của Bác, thời kỳ chiến khu gian khổ Bác bảo chưa cần thiết, khi làm Chủ tịch Nước Bác bảo dân còn nghèo.

Nhớ thời kỳ về nước ở hang Cốc Bó, Bác thường vào các bản làng thăm đồng bào, với bộ quần áo Chàm, chân đi giày vải, trông như một ông Ké thực thụ. Khi về Thủ đô Hà Nội đọc Tuyên ngôn độc lập, các đồng chí Trung ương may cho Bác bộ quần áo bằng vải Kaki.

Thời kỳ kháng chiến, Bác có thêm bộ “Quân phục màu xanh” Bác thường mặc lúc hành quân đi lẫn trong đoàn quân ra trận. Bác còn có thêm chiếc áo len cho ấm về mùa đông, chiếc áo khoác tránh mưa là chiến lợi phẩm của một đơn vị bộ đội tặng Bác. Trời nắng Bác thường dùng bộ “Lụa Hà Đông”.

Đồ dùng của Hồ Chí Minh có chiếc va ly nhỏ đựng sách, tài liệu và cái máy chữ, quần áo tư trang cho vào một túi nhỏ. Các đoàn thể tặng Bác nhiều tư trang, đồ dùng. Bác thường đem làm tặng phẩm cho cá nhân, tập thể có thành tích, hoặc đem bán đấu giá lấy tiền cho cách mạng.

Tư trang của Bác bao giờ cũng ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng Bác lại luôn luôn lo cho sự thiếu đủ của từng người. Bác đến thăm thương binh, Bác lo từng chiếc áo ấm cho họ lúc vào trại tù binh thấy tù binh thiếu áo, Bác cũng lo áo cho họ, cử nghĩa đó làm bớt đi sự căng thẳng hận thù của con người với con người, của hai dân tộc.

Trong gian khổ kháng chiến, Bác cùng chịu đựng đói, no, giá lạnh như người chiến sỹ. Không để lại gì cho riêng mình mà lo cho chiến sỹ trước. Bác là người khởi xướng phong trào “Mùa đông binh sỹ”, vận động nhân dân không những lo cái ăn mà còn lo cái mặc cho chiến sỹ. ở hậu phương ai có thành tích lo cho chiến sỹ mặc ấm Bác đều gửi thư khen ngợi.

Kháng chiến thắng lợi Bác trở về Thủ đô, ăn mặc của Bác cũng không thay đổi lắm. Bác thường dặn các đồng chí phục vụ khi giặt áo cho Bác thấy chỗ nào rách thì vá lại cho Bác dùng, cho nên việc khâu vá quần áo cho Bác các đồng chí phục vụ cũng tự làm lấy. Khi cần lắm các đồng chí không làm được mới xuống nhà máy nhờ làm giúp. Bác mặc số lượng ít nên phải thay đổi luôn. Bác đi nhiều nơi.

Khi xuống đồng ruộng gặt lúa, chống hạn với bà con nông dân, quần áo thường vấy bùn. Khi thăm nhà máy, Hồ Chí Minh thường xuống tận nơi làm việc của công nhân nên dầu mỡ, chất xút thường vấy vào quần áo Bác, những chỗ đó dẫu giặt sạch ít lâu sau cũng bị bủng.

Thay cái mới Bác không chịu, Bác bảo khâu vá lại cho Bác để Bác dùng. ở những bộ quần áo đó những vết mạng, những miếng vá đều gắn với những kỷ niệm. thời kỳ Bác đi kháng chiến, trong bộ quần áo xanh, trên đường hành quân, Bác như một người lính, vai thắt bao gạo ngang lưng, mũ cài lá nguỵ trang, khăn vắt ngang vai hoà vào nhịp bước hành quân của bộ đội, dân công đi chiến dịch.

Trên đường gặp một ông cụ trong đoàn dân công. Hai người chuyện trò tâm đầu hợp ý. Bác khen ông cụ “Cụ già còn phục vụ tiền tuyến làm gương cho con cháu noi theo”. Cụ kia khen Bác: “Tôi làm sao bì được với Cụ, Cụ râu tóc đã bạc mà vẫn “Chiến sỹ Bạch đầu quân”. Hai Cụ vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ.

Khi lội qua suối, cụ dân công trượt chân, Bác vội đỡ kịp thời nên cụ không bị ngã, nhưng chiếc đinh ở đầu đòn gánh đã vướng làm rách áo Bác. Cụ dân công vội cảm ơn “Thật là em ngã anh nâng”. Cả hai cụ cùng cười vui vẻ. Còn vết mạng ở đầu gối là kỷ niệm ở Ngòi Thia, gần Tân Trào.

Hôm đó Bác đi ngựa, khi đến chỗ vòng ngoặt gấp có cây tre chắn ngang lối đi, ngựa phi nhanh Bác chưa kịp ghìm cương, ngựa dừng đột ngột Bác mất đà bị ngã, nhưng may Bác phản xạ nhanh nên chỉ xước đầu gối, vết xước làm rách vải và chảy máu. Khi mọi người chưa kịp đến thì Bác đã đứng dậy, chân đi cà nhắc.

Còn vết khâu ở gần gấu áo là lần Hồ Chí Minh về chống hạn. Bác cùng đồng chí Tỉnh ủy tát nước gàu dai, nhưng đồng chí Tỉnh uỷ không biết tát nước, cứ lóng ngóng chân tay, làm dây gàu vướng vào làm gấu áo Bác bị rách, sau phải vá lại, Bác bảo: “Làm cán bộ lãnh đạo nông nghiệp thì phải biết cách lao động của nông dân”, rồi Bác tập cho đồng chí tát nước.

Có lần Hồ Chí Minh đi thăm một nhà máy, Bác xuống tận tổ công nhân đang cho chạy máy, Bác đến hỏi han công việc: chất xút bắn vào áo, tạo thành nhiều vết khác màu áo, Bác bảo đồng chí phục vụ khắc phục làm cho màu áo và màu vết xút gần giống nhau, và áo lại dùng được bình thường.

Tất cả những áo quần đó vì đã mang vết nên không thể giấu Bác để thay cái mới được, thay cái khác lá Bác biết, Bác phê bình ngay.

Đồng chí Cần, chuyên lo ăn uống, quần áo cho Bác thời kỳ ở Hà Nội. Đồng chí tầm cỡ người như Bác, nên khi may quần áo cho Bác đồng chí mặc vừa là Bác mặc vừa. Quần áo thường ngày Bác thích màu gụ, nên khi may xong đồng chí mang sang xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ. Bộ nào hơi cũ là đồng chí thay bộ khác cùng kiểu cùng màu nên lúc đầu Bác không biết.

Một thời gian sau Bác thấy quần áo vẫn mới, Bác bèn đánh dấu rất kín và phát hiện ra là đồng chí đã đổi quần áo của Bác. Bác liền phê bình, từ đó rất khó thay đổi quần áo của Bác.

Áo Bác dùng lâu giặt đi giặt lại nhiều lần nên cổ áo bị sờn và rách dần, khi mọi người đề nghị Bác cho thay cái khác Bác bảo: “Cả cái áo chỉ sờn chỗ cổ, mà vứt đi thì không được, chú chịu khó tháo rồi lộn trong ra ngoài, may lại vẫn lành “Như mới”. Làm theo ý Bác được mấy lần, sau không thể “Khắc phục” được nữa Bác mới cho thay cái mới.

Đôi bít tất Bác đi cũng vậy, bị thủng ở đầu ngón chân Bác bảo khâu lại cho Bác dùng, vì không biết làm nên phải xuống xí nghiệp may mặc của Bộ Nội vụ nhờ các cô giúp. Các cô đề nghị thay đôi khác cho Bác, nhưng Bác đã dặn là bít tất của Bác chỉ hỏng mũi, còn mọi chỗ vẫn lành nguyên, chỉ nhờ các cô khâu lại, nếu đem đổi đôi khác là Bác không dùng đâu.

Khi Bác dùng lại đôi tất, khen các cô khéo tay, Bác nói: “Chú xem, chỉ chịu khó một tý là có đôi bít tất như mới”. Lần sau đôi bít tất đó thủng hai lỗ trước và sau, rồi lại lần nữa, các cô phải khâu vá đôi bít tất đến ba lần.

Bác thường dùng khăn mặt vuông, vì dùng khăn mặt vuông tiết kiệm hơn khăn mặt chữ nhật, mỗi khi dùng xong Bác có thói quen phơi lên dây, luôn giữ hai mép dưới bằng nhau. Bác tìm mấy hòn cuội nhỏ xếp vào trong hộp đựng xà phòng, khi dùng xong Bác để xà phòng lên những hòn cuội, xà phòng mau khô, nên tiết kiệm.

Chị Liên là người được đồng chí Cần nhờ may vá giúp Bác.

Chị kể lại, khi làm việc này mới thực sự hiểu Bác giản dị và tiết kiệm đến chừng nào. Bác có chiếc áo gối vải màu xanh hoà bình, miếng vá này chồng lên miếng vá kia, mỗi lần cầm chiếc áo gối vá lại cho Bác mà chị không cầm nổi nước mắt, không cầm kim vững để khâu lại được chị nói với đồng chí Cần: “Anh đừng bắt tôi vá áo gối cho Bác nữa. Tôi thương Bác lắm, anh có cách nào thay áo gối khác cho Bác”.

Đồng chí Cần nói: “Tôi đã nhiều lần đề nghị Bác cho thay cái khác, nhưng Bác chưa đồng ý Chị chịu khó vá giúp tôi”. Cầm kim mà lòng chị không cầm nổi nước mắt. Những lúc đó chị hình dung Bác như thấu hiểu nỗi lòng người mẹ hiền thôn quê tần tảo lo cho đàn con nhỏ miếng ăn, manh áo trong cảnh túng thiếu.

Hồ Chí Minh hiện thân của người mẹ Việt Nam, đối với ai đó dẫu ở cương vị công tác nào Bác cũng giáo dục tinh thần biết quý trọng con người là ở thái độ đối với tiết kiệm, đó là thước đo đạo đức của cán bộ. Đối với anh em phục vụ Bác chân tình mà nghiêm khắc khi giáo dục tiết kiệm.

Đôi dép cao su của Bác đã đi vào thơ ca nhạc hoạ, hiện thân trong đời sống nhân dân như một huyền thoại, gắn liền với cuộc đời vĩ đại, đức tính giản dị, ý chí kiên cường, bền bỉ cùng với dân tộc trên dặm đường trường chinh vạn dặm vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Đôi dép của Bác được cắt từ chiếc lốp ôtô quân sự, chiến lợi phẩm của trận phục kích địch tại Việt Bắc, đôi dép được cắt vừa chân Bác, hai quai trước to bản kiểu quai vắt chéo, vừa êm vừa chắc chắn cho khi lội suối, trèo đèo, vượt đường trơn, dốc cao.

Thấy tiện, dễ sử dụng lại hiệu quả, Bác cho phổ biến trong toàn mặt trận, thay thế dần giày vải, dép rơm, dép mo cau… Nhân chuyến hành quân đi chiến dịch, Bác thấy ai cũng đi đôi dép cao su vượt suối băng đèo thoăn thoắt, Bác nói vui: “Như vậy Bác cháu chúng ta có đôi hài cao su vạn dặm, chúng ta muốn đi đâu cũng được”.

Về Hà Nội, Bác vẫn dùng dép cao su. Đôi dép Bác dùng lâu ngày vẹt cả đế, quai bị tuột luôn, đóng đinh găm quai nhiều lần mà vẫn tuột, có kiên trì và khéo tay mới làm lại được, khi sửa xong thấy vẫn dùng được là Bác cứ dùng. Thấy dép Bác Hồ cũ, hỏng nhiều, các đồng chí phục vụ đề nghị thay đôi khác, Bác không chịu.

Anh em bàn “kế hoạch” làm một đôi khác thật giống đôi dép Bác đang đi chỉ có khác là chắc, bền hơn, lợi dùng thời cơ thay vào. Hôm đầu Bác đi Bác không nói gì, anh em tưởng việc đã êm, nào ngờ sáng hôm sau Bác hỏi sao lại đổi dép của Bác, anh em đành thưa thật với Bác, Bác ôn tồn bảo:

“Các chú biết lỗi nhận lỗi là tốt, đôi dép cũ của Bác nếu chịu khó sửa vẫn còn dùng được, lần sau mua sắm cái gì cho Bác, các chú phải báo cho Bác biết”. Anh em tưởng Bác nói thế là đã chấp nhận đổi dép, nhưng Bác vẫn giữ đôi dép đó mặc dầu đã sửa nhiều lần, vì nó là kỷ niệm bên Bác từ những ngày gian khổ.

Bác còn có một ước mơ duy nhất nữa là cùng đôi dép đó vào thăm đồng bào miền Nam là Bác thoả mãn ước nguyện. Bác nói thật cảm động. Một lần Bác đến thăm một đơn vị hải quân, các chiến sĩ lần đầu gặp Bác, ai cũng muốn được gần Bác nên chen chúc nhau làm tuột quai dép của Bác. Bác bảo chú nào khéo tay sửa lại cho Bác.

Ai cũng muốn giành lấy để giúp Bác, thế rồi đôi dép được chuyền tay nhau, nhưng không ai sửa được vì dép đã quá vẹt mòn, đã đóng đinh mấy lần rồi, xâu vào nó lại tuột ra. Có người nhanh chân kịp lấy búa và đinh sửa lại giúp Bác, Có người yêu cầu Bác đổi dép khác.

Bác bảo: “Dép đã sửa xong khi nào không sửa được hẵng hay, giờ mua chiếc khác không cần thiết, vẫn dùng được sao vứt nó đi, dân ta còn nghèo, mỗi người kể cả Chủ tịch nước cũng phải tiết kiệm”.

Có mẩu chuyện vui về đôi dép của Bác, lần đó xem phim, tất cả đều ngồi bệt xuống nền nhà gỗ, Bác để dép bên cạnh phía trước để khi về cho tiện lấy và không nhầm lẫn.

Xem phim xong, Bác cùng mọi người chụp ảnh, cô gái ngồi cạnh Bác, thấy đôi dép đã quá cũ, không biết dép Bác, sợ làm xấu mất ảnh, cô vươn người với tay định cất đi, Bác nhanh tay hơn với trước, vội cất ra sau và nói vui, ờ đúng rồi, phải giấu nó đi, chứ vào ảnh hỏng mất ảnh.

Bác có thói quen, khi đã đi dép là cúi xuống kéo quai hậu cẩn thận, vừa dễ đi, chắc chắn, dép không kêu lẹt bẹt, làm mất tác phong của người đứng đắn, dép mòn cũng mòn đều, không mòn vẹt một bên, hai quai trước cũng đỡ hỏng. ở Bác đi dép cũng là một nét văn hoá.

Đầu năm 1958, Bác đi thăm Ấn Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế, rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giày vải. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, thay đôi dép bằng đôi giày vải, khi thức giấc Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác là đôi dép đã để dưới khoang máy bay.

Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi. Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Ấn Độ cũng nghèo như mình, mới có độc lập nên nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Ấn Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn Ấn Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới.

Ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại của một con người huyền thoại. Hôm Bác Hồ đến thăm một ngôi chùa, Bác vừa cởi dép ở ngoài để vào nhà chùa, các phóng viên được dịp tha hồ quay phim, chụp ảnh đôi dép huyền thoại đó.

Bác lo cho dân không chỉ ngồi ở bàn giấy rồi nghe báo cáo, mà Bác trực tiếp xuống tận cơ sở, đến với từng người lao động để hiểu hơn tình hình thực tế. Đi đâu Bác chỉ dùng một chiếc xe “Pabêđa” do nhân dân Liên Xô gửi tặng.

Xe dùng đã lâu ngày nên cũ và hay hỏng vặt, văn phòng đề nghị Bác cho đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi. Còn Bác thì không”.

Có hôm đến giờ đi công tác, xe không nổ máy được, Bác ôn tồn bảo đồng chí lái xe: “Máy móc có lúc trục trặc. Chú cứ bình tĩnh sửa, sửa xong Bác cháu đi cũng kịp” mấy phút sau xe mới nổ máy được, Bác cười vui và nói: “Thế là xe vẫn còn tốt”, ở Bác, tiết kiệm là hành trang trong cuộc đời.

Thật cảm động khi biết rằng bản di chúc của Bác đã đi vào lịch sử dân tộc được Bác viết, ở mặt sau tờ tin hàng ngày của Việt Nam Thông tấn xã. Hành trang của Bác – của một vị lãnh tụ, giản dị như hành trang của một người dân bình thường, bởi Bác sống không chỉ cho riêng mình.

*Ý nghĩa câu chuyện:

Qua câu chuyện giáo dục chúng ta phải biết tiết kiệm, rèn luyện cho mình một cách sống giản dị phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh, cho dù ở bất cứ cương vị nào cũng cần phải tiết kiệm, không chỉ tiết kiệm cho bản thân mà tiết kiệm cho mọi người, phải luôn quan tâm đến cuộc sống xung quanh của mọi người.

*Bài học kinh nghiệm:

Một là, tiết kiệm, giản dị chính là yếu tố quan trọng để chúng ta xây đắp nhân cách con người Việt Nam. Noi gương Bác Hồ các tầng lớp phụ nữ xây dựng lối sống tiết kiệm, giản dị sẽ giúp cho các gia đình Việt Nam hạnh phúc ấm no.

Hai là, làm theo cách sống giản dị, tiết kiệm ở Bác Hồ, sẽ giúp cho cán bộ, nhân dân, các tầng lớp phụ nữ xây dựng cuộc sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội, biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải, vật chất của mình và của xã hội.

Ba là, để noi theo cuộc sống giản dị, tiết kiệm của Bác Hồ chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có được một lối sống trong sạch giản dị, phải sống bằng chính sức lao động của mình, không tham ô, không xa hoa, lãng phí.

Bốn là, tiết kiệm cho bản thân và gia đình giúp ta ổn định trong chi tiêu, chủ động hơn trong công việc, cuộc sống. Tiết kiệm cho tập thể và nhà nước thì nước sẽ giàu, dân sẽ mạnh và góp phần đưa đất nước, con người hướng tới một sự phát triển bền vững.

3. Câu chuyện 3: Chú còn quá trẻ chú vào hầm trước đi

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Một ngày tháng 7-1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi đến mời cơm tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta bên cạnh Chính phủ Pháp.

Trong bữa cơm, Bác Hồ kể chuyện về khu Luýcxămbua, Môngpacnát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều…

Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.

Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.

Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:

Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn trước.

Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó đến đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí cảnh vệ. Bác là người vào hầm trú ẩn sau cùng.

*Ý nghĩa câu chuyện:

Câu chuyện thể hiện đức tính nhân ái, quý trọng nghĩa tình của Bác Hồ, không lùi bước trước mọi hiểm nguy, gian khổ, không ngại hy sinh bản thân mình, luôn nghĩ đến đồng đội, bảo vệ đồng đội.

*Bài học kinh nghiệm:

Tác phong của Bác Hồ rất quần chúng, gần gũi với mọi người, những lời dạy của Bác Hồ thật giản dị, nhưng vô cùng sâu sắc. Điều đó chỉ có thể xuất phát từ tình cảm chân thực và chính điều đó đã cảm hóa được tất cả người dân, một lòng, một dạ theo Bác kháng chiến, kiến quốc.

Hiện nay trong công tác vận động quần chúng, là cán bộ Hội chúng ta cũng phải biết làm gương để hội viên, phụ nữ neo theo, không ngại khó, ngại khổ luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân.

4. Câu chuyện 4: Việc gì làm được hãy tự làm lấy

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

* Nội dung câu chuyện:

Tháng 8 năm 1952 Bộ Quốc phòng mở hội nghị tổng kết chiến tranh du kích tại căn cứ địa Việt Bắc. Một buổi sáng như thường lệ, một chiến sĩ phục vụ hội nghị xách mấy ống tre đầy nước từ dưới suối đi lên cho chúng ta dùng. Tôi và anh Hoàng đón lấy một ống tre bỗng một ông già mặt quần đùi, áo mây ô, khăn mặt hoàng cổ nhuộm màu lá cây đi lại gần hai chúng tôi.

Anh Hoàng ghé sát vào tai nói nhỏ.

Bác, Bác Hồ đấy!

Chúng tôi chưa kịp chào Bác thì Bác hỏi.

Nước xách lên cho các chú đánh răng, rửa mặt phải không? Không đợi chúng tôi trả lời, Bác nói!

Không được thế! hai chú đang tuổi thanh niên, buổi sáng xuống suối rửa mặt tha hồ thoải mái, mà còn tập thể dục có hơn không?

Cả hai chúng tôi đứng lặng người, Bác nói tiếp.

Việc gì có thể làm được hãy tự làm lấy, đừng bắt chiến sĩ phục vụ vì mình mà các chú không chịu phụ thuộc, Bác đi rồi chúng tôi còn đứng nhìn theo và vô cùng thắm thía lời nhắc nhở của Bác.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Qua câu chuyện kể cho thấy trong cuộc sống khi làm việc gì phải nghĩ đến mọi người, đừng vì lợi ích riêng tư mà xem nhẹ quyền lợi của người khác, phải tích cực lao động, của cải vật chất tự mình làm ra mới có giá trị đích thực, dù việc nhỏ hay to, phải thật sự gương mẫu, thường xuyên quan tâm và nghĩ đến mọi người, đừng nên trông chờ vào sự giúp đở của người khác.

* Bài học kinh nghiệm:

Trong công tác dù ở cấp nào chúng ta cũng phải chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động cho bản thân, không trông chờ vào sự phân công, giúp đỡ của người khác.

5. Câu chuyện 5: Tiết kiệm

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Sáng 24-7-1957, buổi tiễn đoàn đại biểu nước ta diễn ra trước nhà Chủ tịch Zawasdzki. Đúng 9 giờ, Chủ tịch nước Ba Lan zawasdzki cùng Bác Hồ từ trên gác bước xuống tầng dưới đến một căn phòng rộng hàng ngàn thước vuông với ba ngọn đèn với hàng mấy trăm ngọn sáng trưng, trong khi mặt trời đã lên cao. Bỗng nhiên Bác hỏi:

Vụ Trưởng lễ tân có mặt ở đây không?

Mọi người ngạc nhiên chưa biết Bác hỏi để làm gì. Bộ trưởng ngoại giao nước bạn bước lại gần Bác:

Thưa Chủ tịch, Vụ Trưởng Lễ tân đang ở ngoài sân bay. Tôi là Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao, xin Chủ tịch chỉ thị.

Bác hỏi: Chỗ tắt đèn ở đâu?

Mấy chiến sĩ bảo vệ vội vàng chạy đi tắt đèn. Chỉ tịch zawasdzki quay mặt đối diện với Bác, nói nghiêm trang:

Xin cảm ơn đồng chí Hồ Chí Minh, tôi chân thành nhận khuyết điểm chưa nghiêm túc thực hiện chỉ thị tiết kiệm của Lênin.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Câu chuyện toát lên phẩm chất sáng ngời của Bác và ẩn chứa trong đó nhiều triết lý sâu sắc, là bài học quý báu cho hôm nay và mai sau. Đó là bài học về tính tiết kiệm. Tiết kiệm là sử dụng hợp lý, có hiệu quả tiền của, thời gian, công sức lao động, nhằm tích lũy thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao mức sống nhân dân.

* Bài học kinh nghiệm:

Tiết kiệm phải từ cái nhỏ đến cái lớn, không xa xỉ, hoang phí, bừa bãi, phô trương, hình thức. Người tiết kiệm là người biết cân đối, chi tiêu có kế hoạch, có tính toán, xem xét đầy đủ các yếu tố, nhằm giảm bớt hao phí trong quy trình sản xuất, trong hoạt động, nhưng vẫn đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

6. Câu chuyện 6: Người công giáo ghi ơn Bác Hồ

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Ngày 12 tháng 6 năm 1997 tại hội thảo khoa học “Bác Hồ với Huế – Huế với Bác Hồ” do Thành ủy Huế tổ chức nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày Bác Hồ về thăm Đồng Hới – Quảng Bình, lúc đó thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, linh mục Nguyễn Văn Ngọc đã kể một kỷ niệm không bao giờ quên của đồng bào công giáo xứ Huế về đức bác ái bao la của Bác Hồ:

Năm 1949, Việt Minh bao vây kinh tế Thành phố Huế. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc khi đó đảm đương công việc ruộng đất của nhà chung tại giáo xứ Lương Văn, có trách nhiệm cung cấp lương thực để đài thọ cho 600 linh mục, chúng sinh dòng tu nam, nữ của thành phố. Trong điều kiện Huế bị bao vây, linh mục không có cách nào chở được số lúa gạo vào thành phố cho Nhà Chung ăn tiêu.

Linh mục rất lo lắng, đem chuyện này thưa lại với đồng chí Quế, lúc đó là cán bộ Việt Minh của Mặt trận Thừa Thiên Huế, vẫn có liên lạc với giáo xứ Lương Văn. Sau một hồi suy nghĩ, đồng chí Quế khuyên linh mục Ngọc nên viết thư xin phép Bác Hồ, đồng chí sẽ cố gắng tìm cách chuyển giúp.

Không còn cách nào khác, linh mục Ngọc đánh bạo viết thư lên Cụ Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực lòng cũng không dám hy vọng sẽ đến được với Bác Hồ trong hoàn cảnh chiến tranh, Người lại ở quá xa và đang bận rộn trăm nghìn công việc lớn lao của đất nước.

Thật bất ngờ, một tháng sau, đồng chí Quế chuyển đến cho linh mục Ngọc một cái thiếp có chữ ký và dấu của Cụ Chủ tịch. Nội dung gồm 2 điểm:

  • Cho phép linh mục Nguyễn Văn Ngọc được phép chở 9.000 thúng lúa lên thành phố Huế trong vòng 1 tháng để trợ cấp cho Nhà Chung.
  • Linh mục Ngọc được tự do đi lại trong tỉnh Thừa Thiên để coi sóc ruộng đất của Nhà Chung, tiếp tục trồng cấy, không được để ruộng đất bỏ hoang.

Nhờ có giấy phép đặc biệt của Bác Hồ, linh mục Ngọc đã hoàn thành được nhiệm vụ, chở được lương thực lên thành phố, cứu nguy cho hơn 600 con người đang trong cảnh nguy ngập.

Ai cũng mừng rỡ và hết lòng ca tụng Bác Hồ, vị Chủ tịch có lòng bác ái mênh mông của Chúa, tất cả vì lợi ích và cuộc sống của con người, không phân biệt lương hay giáo. Bác Hồ đúng là hiện thân của chính sách đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết tôn giáo.

Để kỷ niệm và ghi ơn Bác Hồ, vị giám mục người Pháp địa phận Huế đã gửi tấm thiệp của Người về Paris và hiện nay tấm thiệp đó vẫn đang được trang trọng lưu trữ tại hội Thừa Sai Paris.

Theo lời kể của linh mục Nguyễn Văn Ngọc.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Bác Hồ thường dạy đồng bào Công giáo cách tốt nhất giữ gìn và noi theo tấm gương sáng ngời của Đức chúa là “Không chia lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến để giữ gìn non sông, Tổ quốc và cũng để giữ gìn tín ngưỡng tự do”. Đoàn kết tôn giáo cũng chính là đoàn kết dân tộc.

Với mọi tôn giáo, Bác luôn thể hiện sự tôn trọng và thực hiện bình đẳng tôn giáo. Người khẳng định: Năm ngón tay có ngón dài, ngón ngắn nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay.

Trong mấy triệu người cũng có người thế này người thế khác nhưng đều thuộc dòng dõi tổ tiên ta. Nên bản thân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, không để kẻ xấu lợi dung vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn xây dựng khối đại đoàn kết, lương giáo, đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.

Có thể nói, tấm lòng Bác Hồ đối với những người có đạo nói chung, đồng bào tôn giáo nói riêng vô cùng bao la, vĩ đại. Tư tưởng, tình cảm và đạo đức của Người luôn chứa đựng chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, như là những lời dặn dò, tâm tình của Người gửi đến đồng bào Công giáo phải sống và hoạt động để xứng đáng với tấm gương sáng ngời tốt đời, đẹp đạo.

* Bài học kinh nghiệm:

Trong thời kỳ hội nhập, công tác tuyên truyền vận động quần chúng cần đa dạng hóa các hình thức tập hợp không phân biệt tôn giáo, dân tộc, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng nhưng không đi sai chủ trương đường lối của Đảng, đoàn kết thành một khối thống nhất góp phần thực hiện tốt các phong trào thi đua tại địa phương, đơn vị.

7. Câu chuyện 7: Bác Hồ về thăm Lỗ Khê

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

* Nội dung câu chuyện:

Câu chuyện được diễn ra vào cuối năm 1963, tại hợp tác xã Lỗ Khê, huyện Đông Anh (Hà Nội), xuất hiện một phong trào sôi nổi và độc đáo. Đó là cuộc vận động toàn thể nhân dân tích cực tham gia “Cần – Kiệm” xây dựng hợp tác xã.

Độc đáo vì mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều lên kế hoạch cụ thể về chi tiêu. Các đảng viên phân công nhau về từng tổ để vận động bà con. Thiếu vốn thì dựa vào dân để vay chứ không ỷ vào Nhà nước.

Từng đoàn viên bàn nhau bỏ những việc chi tiêu chưa cần thiết để góp cho hợp tác xã. Noi gương các anh chị thiếu nhi cũng rủ nhau đi bắt cua, hái rau, bán gà vịt do mình tăng gia để giúp cha anh. Đặc biệt các cụ già xung phong đi đầu đóng được 400 đồng cho xã.

Cuộc vận động tiết kiệm này đã mang lại số vốn “Khổng lồ” là 15 nghìn đồng so với 240 đồng vốn khởi điểm của hợp tác xã. Bằng số tiền tiết kiệm, xã đã mua được 10 con trâu, 350 con lợn giống và 3.000 đồng giống khoai tây thời vụ, công trình thủy lợi hoàn thành trong 5 tháng (chứ không phải là 3 năm). Biến 200 mẫu (chứ không phải là 48 mẫu) một vụ bấp bênh thành 2 vụ…

Ngày 18-01-1964, trên báo Nhân dân, Hồ Chí Minh đã trang trọng viết một bài báo tên là: “Gương tốt của thanh niên Lỗ Khê”: Tết tươi vui và tiết kiệm, ca ngợi phong trào của nhân dân trong xã.

Bài báo được ký dưới bút danh “Trần Lực” là bút danh hay dùng của Bác. Với tinh thần ủng hộ sáng kiến, Bác viết:

“Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, xã Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội) đã đặt kế hoạch làm cho Tết năm nay tươi vui và tiết kiệm. Các chi đoàn Hà Nội và nhiều tỉnh khác như Hải Phòng, Sơn Tây, Nghĩa Lộ, Thái Nguyên… đều hăng hái nhận thi đua với Lỗ Khê… Hoan hô sáng kiến tốt của thanh niên! Chúng ta – những người cha mẹ, cô bác – cũng cần phải thiết thực ủng hộ phong trào đó…Vì sao thanh niên Lỗ Khê là người đề xướng phong trào tiết kiệm này? Bởi vì họ có kinh nghiệm mới mẻ và thiết thực.

Hai tuần sau khi bài báo của Hồ Chủ tịch đăng trên trang nhất báo Nhân dân, Lỗ Khê đón tết trong một không khí ấm áp, vui mừng, hứng khởi của người dân trước những thành tựu nông nghiệp vừa đạt được.

Mùng một tết, vừa hửng sáng, các gia đình đang sửa soạn cỗ bàn, bổng từ nhà bà Nga, ở đầu làng có tiếng reo: B…a…c về! Bác…Hồ…về! Cái tin Hồ Chủ tịch về thoáng cái được cả làng biết đến bởi những tiếng reo hò náo nức. Tất cả xã viên, từng nhà đều bỏ dở công việc chạy đổ xô ra đường đón Bác.

Thật kỳ diệu, thật ngạc nhiên, Bác trong bộ áo ka ki quen thuộc, đôi mắt rất sáng, chòm râu hiền từ, đội chiếc mũ vải mùa đông, chậm rãi đi bộ trong làng như một lão nông lâu lắm mới có dịp về thăm xóm cũ.

Bác đi thăm một số gia đình, mừng tuổi các cụ, các cháu rồi mời toàn thể xã viên cùng Bác ra sân đình để Người chúc tết và nói chuyện. Sau khi hỏi thăm sức khỏe của các cụ, Bác hỏi:

Các cụ, các cô, chú, các cháu có biết vì sao Bác về đây không?

Thưa Bác, có ạ! Vì xã thực hành tiết kiệm ạ!

Thế tiết kiệm là gì?

Thưa Bác là không lãng phí ạ! Bác Hồ cười vui rồi nói:

Bà con Lỗ Khê ta thực hành cần kiệm như vậy là tốt. Cần là xã viên bỏ nhiều công sức ra để làm thủy lợi, khoanh vùng chống úng, cấy tăng vụ, thâm canh tăng năng suất, có nhiều lương thực vừa nâng cao đời sống, vừa đóng góp đầy đủ cho Nhà nước, chi viện cho miền Nam. Kiệm là chống lãng phí trong chi tiêu, để dành vốn cho sản xuất, xây dựng hợp tác xã. Có tiết kiệm thì đời sống mới cao lên được, mới đóng góp cho miền Nam được nhiều hơn. Đồng bào có đồng ý thế không?

Thưa Bác, có ạ!

Bác Hồ nhắc nhở nhân dân: Ở hợp tác xã ta năng suất chưa cao vì thủy lợi làm chưa tốt, việc đắp đê khoanh vùng không nên kéo dài, phải dứt điểm trong 6 tháng. Chăn nuôi chưa tốt. Bác vào làng thấy còn ít lợn và lợn rất nhỏ.

Phải chăn nuôi nhiều hơn, tốt hơn. Trồng cây còn kém, phải tích cực hưởng ứng Tết trồng cây làm cho làng xóm xanh tươi mát mẻ. Trong cây trồng, vẫn độc canh cây lúa, như thế chưa tốt. Nên trồng thêm màu, chế biến màu. Những việc ấy bà con có làm được không? Mọi người cùng đáp: Thưa Bác, làm được ạ!

Bác Hồ chỉ hai câu thơ kẻ trên tường đình và khen hay:

“Đón xuân mở hội làm giàu

Mừng xuân cần kiệm lúa màu tốt tươi”

Bác Hồ hỏi tiếp:

Năm nay đồng bào ăn tết tiết kiệm nhưng có vui không?

Thưa Bác, vui lắm ạ!.

Bác cười chúc đồng bào ăn tết thật tươi vui rồi đề nghị tất cả cùng hát bài kết đoàn. Bác giơ tay bắt nhịp, từ sân đình, tiếng hát làm không khí ấm lại, xua tan giá rét. Mùa xuân đang về. Làng xóm Lỗ Khê chưa bao giờ có một mùa xuân vui như thế.

Từ ngày đó, noi gương Lỗ Khê, hàng chục Đảng bộ, hàng trăm chi đoàn hợp tác xã, xí nghiệp, nhà máy, cơ quan đoàn thể trên miền Bắc đã tổ chức các cuộc vận động người dân thi đua cần, kiệm theo tinh thần Bác dạy. Lỗ Khê trở thành lá cờ đầu của phong trào tiết kiệm để cả nước học tập. Bốn mươi ba năm trôi qua, làng xóm đã thay đổi nhiều kể từ ngày Bác về thăm. Nhưng bài học cần kiệm của Hồ Chủ tịch vẫn đinh ninh trong lòng mỗi người dân.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Câu chuyện trên đã thể hiện rõ nét hai đức tính cần kiệm mà người dân Lỗ Khê học được từ Bác, đồng thời thể hiện tinh thần tự giác, tự lực không trông chờ vào nhà nước của người dân Lỗ Khê.

* Bài học kinh nghiệm:

Trong cuộc sống muốn cải thiện đời sống của bản thân, đòi hỏi bản thân mỗi người chúng ta phải biết siêng năng cần cù lao động, biết cách chi tiêu hợp lý, tích lũy từ cái nhỏ để có cái lớn, bản thân phải tự vận động không trông chờ vào người khác.

8. Câu chuyện 8: Từ đôi dép đến chiếc ô tô

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc.

Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác. Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:

Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa… Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được. Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay.

Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy…Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.

Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới… Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa.

Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi…Thưa Bác….

Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự – Bác ôn tồn nói. Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi…

Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.

Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:

Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên.

Thưa Bác, cháu, cháu sửa…

Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ…Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi…
Bác cười nói:

Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ!
Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra.

Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến… Bác phải giục.

Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:

Cháu, để cháu sửa dép…Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:

Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ…Bác nhìn các chiến sĩ nói:

Các cháu nói đúng… nhưng chỉ đúng có một phần… Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên…Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo…Mọi người nhìn nhau, thấm thía lời Bác dạy.

*Ý nghĩa câu chuyện:

Có thể nói, đôi dép cao su có một chiều dài lịch sử qua bao năm tháng đã gắn bó cùng Bác Hồ từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ cho tới lúc Người đi xa.

Đôi dép cao su của Bác Hồ tưởng chừng như rất bình dị song nó lại là một kỷ vật vô giá Bác đã để lại – chỉ dân tộc Việt Nam ta mới có. Đôi dép cao su không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Bác mà với cả dân tộc Việt Nam.

Câu chuyện có ý nghĩa vô cùng lớn lao và nhắc nhở chúng ta phải luôn biết nâng niu, trân trọng những giá trị của cuộc sống. Hình ảnh Người bước đi ung dung, thư thái với đôi dép cao su giản dị mà vẫn toát lên vẻ uy nghiêm lạ thường, lúc nào cũng khiến chúng ta ngưỡng mộ.

Bác Hồ là tấm gương sáng chói cho con cháu chúng ta noi theo trên bước đường hoàn thiện nhân cách và tri thức để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp.

*Bài học kinh nghiệm:

Qua hình ảnh đôi dép cao su cho ta thấy được đức tính giản dị, tiết kiệm đáng quý của Bác. Không chỉ có vậy, nó còn chứa đựng bài học bổ ích mà Bác Hồ muốn dạy cho thế hệ con cháu đó là bài học làm người, sống sao cho có ích cho xã hội, cho đất nước, luôn biết quý trọng sức lao động, mồ hôi, nước mắt của người dân.

Phải luôn quan tâm tới bản chất bên trong chứ không chỉ chú trọng hình thức bên ngoài, cũng như đôi dép cao su tuy cũ nhưng mãi bền vững theo thời gian.

9.Câu chuyện 9: Thời gian quý báu lắm

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.

Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:

Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã không giành được chủ động.

Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp. Bác hỏi:

Chú đến chậm mấy phút?

Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!

Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.

Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu, vì vậy thường không bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình.

Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em tri thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp học, mọi người hồi hộp chờ đợi.

Bỗng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả, tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc rẻ: mưa thế này, Bác đến sao được nữa, trời hại quá.

Giữa lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì từ ngoài hiên lớp học có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:

Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi!

Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần sắn đến quá đầu gối, đầu đội nón, Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người.

Về sau, anh em được biết: giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác…

Nhưng Bác không đồng ý: “Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì biết đến khi nào? Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cả lớp học phải chờ uổng công!”.

Ba năm sau, giữa thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm một đoạn mới. Vào dịp tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng lớp nhân dân thủ đô tập trung tại Uỷ ban Hành chính thành phố để lên chúc tết Bác Hồ.

Sắp đến giờ lên đường, trời bỗng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác khỏi phải chờ lâu thì bỗng xịch, một chiếc xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay, chúc tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu.

Thì ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn của ban tổ chức và không muốn các đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc tết các đại biểu trước. Thật đúng là mối quan tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đến nhân dân.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Trong câu chuyện, Bác đã chỉ ra rằng “Thời gian là quý báu lắm”, mỗi một giờ, một phút, một giây, đều có ý nghĩa của nó. Thực tế trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác luôn sử dụng hiệu quả quỹ thời gian, luôn hết sức tiết kiệm không để lãng phí.

Càng quý thời gian của mình bao nhiêu, Bác càng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Mặc dù trời mưa tầm tã, Bác vẫn mặc áo mưa, đội nón, sắn quần qua đầu gối đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức, chỉ vì “ đã hẹn thì phải đến, đến đúng giờ”.

Hình ảnh Bác Hồ mặc áo mưa, đội nón, sắn quần qua đầu gối đến thăm lớp chỉnh huấn, không ai nghĩ rằng đó là chân dung của một vị Chủ tịch nước mà tất cả đều cảm nhận. Hình ảnh đó còn thể hiện sự quan tâm, gần gũi, gắn bó chặt chẽ giữa lãnh tụ và quần chúng, làm cho mối quan hệ, tinh thần đoàn kết giữa Đảng và dân càng thêm gắn bó mật thiết, gần gũi.

* Bài học kinh nghiệm:

Qua câu chuyện cho chúng ta thấy trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta phải biết sắp xếp quỹ thời gian sao cho phù hợp dù cho việc lớn hay nhỏ cũng cần phải có kế hoạch cụ thể, phải có quyết tâm để hoàn thành kế hoạch đề ra, không vì một trở ngại nào mà làm ảnh hưởng đến người khác, sống phải biết hy sinh cái riêng để phải biết quan tâm, gần gũi với mọi người, tạo mối quan hệ đoàn kết gắn bó với nhau.

10. Câu chuyện 10: Đêm giao thừa Bác Hồ đến với người nghèo

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Xuân Tân Tỵ, năm 1941, Bác mới được đặt chân trở về giữa lòng Tổ quốc thân yêu sau đúng 30 năm trời ra đi tìm đường cứu nước (1911-1941).

Hành trang theo Bác trở về vẻn vẹn chỉ có một chiếc va ly xách tay bằng mây, trong đựng hai bộ quần áo đã cũ và tập tài liệu con đường giải phóng tập hợp những bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác phụ trách vừa mới kết thúc trước Tết mấy hôm.

Mùa Xuân năm ấy, từ hang Pác Bó đã ra đời một bài thơ xuân tuyệt đẹp của Bác Hồ:

“Non xa xa, nước xa xa.

Nào phải thênh thang mới gọi là.

Đây suối Lênin, kia núi Má.

Hai tay xây dựng một sơn hà “.

Chỉ hơn 4 năm sau, ngày 02-9-1945, sơn hà của Tổ quốc đã được thu về một mối, từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau.

Hồ Chí Minh trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và mùa Xuân độc lập đầu tiên, Xuân Bính Tuất năm 1946 đã trở về trên toàn cõi đất nước với một sắc màu khác lạ làm gợi nhớ đến một thời Nghiêu Thuấn xa xưa.

Vào thời khắc mọi gia đình quây quần bên nhau chuẩn bị đón giao thừa thì vị Chủ tịch nước xắn quần, bước thấp bước cao đến các ngõ hẻm ở phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng…để được chính mắt nhìn thấy cảnh Tết vừa, Tết nghèo của bà con lao động Hà Nội mới vừa thoát khỏi ách thực dân phong kiến.

Chính trong cuộc “vi hành” đêm Ba mươi Tết của mùa Xuân độc lập đầu tiên đó, Bác Hồ đã chứng kiến cảnh gia đình một người đạp xích lô “Tết mà không có Tết” ngoài một nén hương đang cháy dở trên bàn, còn chủ nhà thì đang đắp chiếu nằm mê mệt vì ốm. Bác đã xúc động lấy khăn lau nước mắt, lặng lẽ bước ra khỏi nhà, bảo đồng chí thư ký ghi lại địa chỉ để hôm sau báo cáo cho đồng chí Chủ tịch Hà Nội biết.

Cũng đêm Ba mươi Tết Bính Tuất đó, đúng giờ giao thừa, khi Đài Tiếng nói Việt Nam truyền khi khắp đất nước lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì chính Người lại đang vui Xuân cùng nhân dân ở đền Ngọc Sơn, trong vai một cụ già cùng cháu đi hái lộc.

Lần đầu tiên nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, được hưởng một mùa Xuân mới mẻ, giao thừa nghe đọc thư chúc Tết của Bác Hồ:

“Hỡi đồng bào cả nước!

Hôm nay là mùng một Tết năm Bính Tuất, ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt lành”. Cuối thư là một bài thơ ngắn:

“Trong năm Bính Tuất mới.

Muôn việc đều tiến tới.

Kiến quốc chóng thành công.

Kháng chiến mau thắng lợi”.

Kể từ mùa Xuân đầu tiên đó, suốt 24 năm làm Chủ tịch nước, mỗi lần Tết đến, Xuân về, Bác lại nghĩ đến dân, lo sao cho dân có một mùa xuân ấm no, hạnh phúc. Thường thì trước Tết ba tháng, Bác đã nhắc các cơ quan, các ngành chuẩn bị Tết cho dân. Riêng Bác cũng tự mình chuẩn bị sớm ba việc.

Tìm ý thơ cho bài thơ mừng năm mới, nhắc văn phòng chuẩn bị thiệp “Chúc mừng năm mới” để kịp gửi đến những nơi xa xôi nhất, kể cả bộ đội ở các vùng rừng núi, hải đảo xa xôi và cán bộ công tác ở nước ngoà và cuối cùng là một chương trình đi thăm dân không thể thiếu đối với Bác, một chương trình riêng mà chỉ Bác và các đồng chí cảnh vệ biết.

Tối Ba mươi Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng Chỉnh, Hà Nội.

Chiều mùng Hai Tết năm 1961, Bác đến Văn Miếu dự buổi bình thơ Xuân của các cụ. Mùng hai Tết năm 1962, Bác đến thăm các cháu học sinh miền Nam ở Hải Phòng. Chiều 29 Tết năm 1963, Bác cải trang thành một cụ già theo cháu đi chợ hoa và chợ Đồng Xuân… Tất cả đều bí mật bất ngờ và do đó bao giờ cũng tạo hiệu quả lớn.

Như Tết năm 1960, nếu Bác chỉ đến thăm các gia đình theo chương trình của các cơ quan đã bố trí thì làm sao Chủ tịch nước biết được gần đến giao thừa rồi mà chị Tín vẫn còn phải đi gánh nước thuê đổi gạo để sáng mai mùng Một Tết có cơm ăn cho bốn đưa con của mình. Gặp Bác, chị Tín xúc động để rơi cả đôi thùng gánh nước xuống đất, run run cầm lấy bàn tay của Bác:

Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm…Chỉ nói được vậy, chị đã oà lên khóc nức nở.

Vị Chủ tịch nước đã an ủi chị.

Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai và Bác đã vào nhà thăm hỏi khá lâu năm mẹ con chị Tín. Gọi là nhà nhưng đâu có phải là nhà mà là một cái chái như một túp lều. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác ở bến Phà Đen đã mất cách đó bốn năm, còn chị thì cho đến lúc này vẫn chưa có việc làm ổn định.

Cảnh nghèo của gia đình đã phũ phàng hiện ra trước mắt Bác. Trên chiếc bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một gói kẹo. Đúng là “Ba mươi Tết mà không có Tết”. Cách đây 15 năm, Tết độc lập đầu tiên, Bác đã đau lòng chứng kiến cảnh một gia đình “Tết mà không có Tết” ở ngõ hẻm Sinh Từ.

Đó là khi đất nước mới thoát khỏi vòng nô lệ. Còn bây giờ, kháng chiến đã thắng lợi, hoà bình đã sáu năm, mà lại còn cái cảnh này sao? Không phải ở đâu xa mà ở ngay Thủ đô Hà Nội… Vậy còn bao nhiêu gia đình như thế này ở khắp mọi miền đất nước? Cứ ngồi nghe báo cáo thì đâu cũng là no ấm, tươi vui…

Đêm ấy, trên đường về, ngồi trên xe, Bác Hồ trầm ngâm suy nghĩ. Vẻ đăm chiêu thoáng hiện trên gương mặt của Người. Bác đã từng tâm sự với các đồng chí phục vụ: “Một ngày dân chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc, các cháu chưa được học hành, mọi người còn khổ thì Bác ăn không ngon, ngủ không yên”.

Về đến nhà, các đồng chí Bộ Chính trị đang chờ Bác để chúc mừng năm mới. Mọi người băn khoăn khi thấy Bác không vui. Bác kể lại hoàn cảnh gia đình chị Tín cho mọi người nghe. Cuối câu chuyện Bác nói “Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân.

Một số lãnh đạo các địa phương còn quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục vụ quần chúng chưa tốt. Nếu chúng ta chỉ nghe báo cáo của họ thì sẽ không bao giờ nắm được chính xác tình hình để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy cơ đối với đất nước chúng ta.

Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta

Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa

Chỉ biết quên mình cho hết thảy

Như dòng sông chảy nặng phù sa.

*Ý nghĩa câu chuyện:

Câu chuyện thể hiện được tình thương bao la, tấm lòng nhân ái của Bác đối với nhân dân đặc biệt đối với những gia đình người nghèo, Bác luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân từ cái ăn, cái ở cái sinh hoạt hằng ngày “Một ngày dân chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc, các cháu chưa được học hành, mọi người còn khổ thì Bác ăn không ngon, ngủ không yên”. Bác đã đến những gia đình người nghèo bằng tình thương mênh mông.

*Bài học kinh nghiệm:

Đây là bài học gần dân, thương dân, đấu tranh chống sự vô cảm, lảnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, Đồng thời Bác cũng nghiêm túc phê bình và tự phê bình với trách nhiệm của Đảng và chính phủ trước nhân dân.

Thấm nhuần ý nghĩa đó, ngày nay cán bộ, đảng viên phải thể hiện tinh thần trách nhiệm, tránh tác phong quan liêu và nặng về hình thức, phải đi sâu, đi sát quần chúng, lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy cơ đối với đất nước chúng ta.

11. Câu chuyện 11: Cán bộ nữ phải tự nâng cao trình độ

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

*Nội dung câu chuyện:

Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I được tổ chức sau Đại hội Công đoàn toàn quốc và tôi được phân công là Trưởng Ban Ban Tổ chức Đại hội. Bác đã đến cơ quan Phụ vận Trung ương để nghe báo cáo về tình hình chuẩn bị Đại hội. Bác dặn dò phải rút kinh nghiệm Đại hội Công đoàn để tổ chức mọi mặt cho tốt hơn nữa…

Bác đã góp ý với Đoàn Phụ nữ Trung ương: Các cô phải nói lên được tinh thần yêu nước của phụ nữ các tầng lớp, nói lên công lao của phụ nữ nông dân cần cù lao động sản xuất sao huy động được nhiều hơn nữa sự đóng góp của phụ nữ cả nước cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

Đi đôi với động viên, các cô phải chăm lo quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Chỉ có phụ nữ mới chăm lo được cho phụ nữ. Các chú ấy không lo được cho các cô đâu…

Từ khi hòa bình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ II và lần thứ III và hai lần này tôi vẫn là Trưởng Ban Tổ chức Đại hội. Trong công tác phụ vận, tôi đã ghi nhận nhiều lời dạy của Bác. Bác nói về mục tiêu phấn đấu của người nữ cán bộ Hội.

Bác có những ý kiến cụ thể:

“Các cô phải chống phong kiến, chống mê tín dị đoan và hủ tục lạc hậu. Góp phần giải quyết nạn mù chữ, nạn thất nghiệp cho phụ nữ. Các cô đừng tự ti, đừng hay khóc. Cách mạng là phải đấu tranh, đưa nước mắt ra không giải quyết được gì đâu. Hội Phụ nữ là tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của chị em.

Cuộc sống của họ phải gắn với Hội, Hội phải lo cho họ. Các cô phải đi vào quần chúng phụ nữ để thấy họ đang gặp khó khăn gì, họ được cái gì và chưa được cái gì. Từ đó nghĩ cách học tập nâng cao trình độ, không dựa vào người khác được đâu. Đảng chỉ giúp một phần mà bản thân mình phải gỡ là chính”.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Cán bộ Hội Phụ nữ phải đi sâu, đi sát, gần gũi với quần chúng nhân dân để nắm tâm tư nguyện vọng của nhân dân, để thấy họ đang gặp khó khăn gì, họ được cái gì và chưa được cái gì, để kịp thời giúp đỡ, chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của tầng lớp phụ nữ, đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới, góp phần tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước.

* Bài học kinh nghiệm:

Là cán bộ nữ phải cần cù lao động sản xuất để đóng góp một phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của chị em phụ nữ.

Phải đấu tranh giành quyền lợi, không tự ti, mặc cảm, phải tự học tập để nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Việt Nam, tham gia các hoạt động xã hội, khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, góp phần thực hiện bình đẳng giới.

12. Câu chuyện 12: Giản dị và tiết kiệm

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

* Nội dung câu chuyện:

Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng:

Khi làm việc ở văn phòng Bác, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều. Học tập Bác đức tính giản dị, tiết kiệm. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại.

Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá. Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác có những kỷ niệm không bao giờ quên.

Bà còn kể rằng: Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công tác về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà: Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.

Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền nhỏm dậy bảo bà: Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Nếp sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa rất cao đẹp. Người tiết kiệm, không lãng phí, phô trương, nếp sống của Bác rất bình thường, đơn giản luôn yêu thương con người. Đối với Bác cán bộ, đảng viên đều là “người đầy tớ” của dân, chúng ta phải biết hy sinh lợi ích, tham vọng của cá nhân mình để phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

* Bài học kinh nghiệm:

Sự giản dị, tiết kiệm của Người sẽ luôn là tấm gương sáng cho các thế hệ sau học tập và noi theo, nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đức tính tiết kiệm của Bác là nét đẹp về đạo đức mà chúng ta học tập và làm theo.

Đặc biệt hiện nay tiết kiệm trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, chúng ta có thể thực hành tiết kiệm ở tất cả các lĩnh vực của đời sống hàng ngày từ sản xuất đến tiêu dùng, từ gia đình đến cộng đồng xã hội.

13. Câu chuyện 13: Gương mẫu trong tôn trọng luật lệ

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

* Nội dung câu chuyện:

Hàng ngày, Bác thường căn dặn các chiến sĩ cảnh vệ phải luôn có ý thức tổ chức, kỷ luật, triệt để tôn trọng nội quy chung. Bác bảo: “Khi bàn bạc công việc gì, đã quyết thì phải triệt để thi hành. Nếu đặt ra cho mình những việc phải làm thì cương quyết thực hiện cho bằng được”.

Một hôm Bác đến thăm một ngôi chùa lịch sử. Đúng dịp lễ nên khách nước ngoài và nhân dân đến chùa rất đông. Bác vừa vào chùa, vị sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Bác đừng cởi dép. Bác không đồng ý. Đến thềm chùa, Bác dừng lại để dép ở ngoài rồi mới bước vào, giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ.

Trên đường từ chùa về nhà, xe đang bon bon, bỗng đèn đỏ ở một ngã tư bật lên. Đường phố đúng lúc đông người. Xe chở Bác cũng như các xe khác đều dừng lại cả. Mọi người trong xe lo lắng nhìn nhau. Nếu nhân dân trông thấy Bác, họ sẽ ùa ra ngã tư này thì dễ gây tắc nghẽn. Nghĩ vậy, cả xe bèn cử một chiến sĩ cảnh vệ chạy đến bục yêu cầu công an giao thông mở đường cho xe Bác. Nhưng Bác đã hiểu ý, Bác ngăn lại rồi bảo:

Các chú không được làm như thế. Phải gương mẫu tôn trọng luật lệ giao thông, không nên bắt người khác nhường quyền ưu tiên cho mình.

Ai cũng thấm thía lời Bác dạy…

* Ý nghĩa câu chuyện:

Nói và làm theo pháp luật. Nói đi đôi với làm. Gương mẫu trong mọi công việc, tôn trọng kỷ cương phép nước, thể hiện tính gương mẫu kỷ luật để từ đó tạo được lòng tin trong quần chúng nhân dân.

* Bài học kinh nghiệm:

Tôn trọng luật lệ là việc nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là vấn đề mang tính chuẩn mực xã hội, việc tôn trọng và thực hiện luật lệ là trách nhiệm của toàn xã hội mà mỗi tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên là tấm gương tiêu biểu để quần chúng nhân dân noi theo.

14. Câu chuyện 14: Chữ quan liêu viết như thế nào?

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

* Nội dung câu chuyện:

Chuyện kể vào ngày 11/5/1952, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với học viên lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, anh em quây quần xung quanh Bác, nghe Bác kể chuyện dặn dò. Cuối buổi Bác cầm một cái que nói:

Các chú học đã giỏi, bây giờ Bác đố chữ này xem các chú có biết không nhé.

Anh em hưởng ứng: “Vâng ạ!”. Người nào biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung thì nhẩm lại kiến thức của mình. Người chỉ biết tiếng Việt thì băn khoăn: Có chữ gì khó mà không đọc được nhỉ?

Bác vẽ một vạch ngang trên mặt đất, rồi hỏi:

Chữ gì nào?

Cả lớp hò lên:

Thưa Bác chữ “nhất ạ”

Bác khen:

Giỏi đấy.

Rồi Bác lại gạch một gạch nữa dưới chữ nhất. Chưa kịp hỏi anh em đã “ồn” lên:

Chữ “nhị” ạ.

Bác động viên:

Giỏi lắm.

Người gạch thêm một gạch nữa dưới hai gạch cũ.

Chữ “tam” ạ.

Bác cười:

Khá lắm.

Rồi người vạch thêm một gạch nữa dưới chữ tam.

Chữ gì nào?

Các vị đớ người ra. Vạch đầu tiên Bác viết vừa phải, vạch thứ hai dài hơn đã có hơi lệch một chút, vạch thứ ba dài hơn tí nữa cũng không được song song cho lắm, vạch thứ tư dài nhất có vẻ đã cong lắm rồi.

Bác giục:

Thế nào? Các nhà “mác-xít”?

Bác lại cầm que vạch thêm một vạch, rồi 2 vạch dọc từ trên xuống, ban đầu thì thắng đứng, xuống đến vạch ngang thứ hai đã queo, vạch thứ ba thì quẹo, vạch bốn như một con giun, loằng ngoằng như cái đuôi chuột nhắt.

Bác đứng dậy:

Chịu hết à? Có thế mà các chú không đoán ra… các chú biết cả đấy.

Rồi để que xuống đất Người giải thích:

Chủ trương chính sách của Đảng đúng đắn…Đến tỉnh đã hơi cong, đến huyện đã tả hữu, đến xã đã sai lệch. Vì sao? Vì cán bộ không làm đúng, không nắm chắc chủ trương, đường lối, không gần gũi dân, không chịu làm đầy tớ nhân dân, mà chỉ muốn làm “quan cách mạng”.

Cho nên chữ ấy là chữ “quan liêu”. Các chú không học nhưng biết mà vẫn làm. Còn cái các chú học thì các chú lại ít làm.

Học viên cả lớp đứng im và không ai bảo ai, đều suy nghĩ về những lời căn dặn của Bác.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Bác đã dạy cho cán bộ thấy được tác hại của “quan liêu” cửa quyền là nguyên nhân sâu xa dẫn đến căn bệnh tham ô, lãng phí. Chỉ cần mỗi cấp hiểu sai một chút thì khi đến với nhân dân, chính sách đó không còn giá trị nữa, thậm chí còn gây hại cho dân.

* Bài học kinh nghiệm:

Là cán bộ, đảng viên phải nắm chắt chủ trương, đường lối, phải trọng dân, gần dân, là người đem chủ trương chính sách đến cho dân giải thích cho dân hiểu và chỉ cho dân cách thực hiện. Đặc biệt phải mạnh dạng đấu tranh phòng, chống và loại trừ “quan liêu” ra khỏi bộ máy chính quyền, bộ máy chính trị của Đảng, để xây dựng Đảng thật trong sạch và vững mạnh.

15. Câu chuyện 15: Phải chăm chỉ học tập

Top 30 câu chuyện về Bác Hồ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho thế hệ sau (Phần 1)

* Nội dung câu chuyện:

Hồi ấy, ít có ai được gặp Bác, nhưng tôi may mắn ít lâu sau, tôi được sang làm việc bên Bác. Hàng ngày Bác làm việc ở nhà riêng. Thường Bác tự đánh máy lấy. Hết giờ làm việc, Bác cùng sinh hoạt chung với anh em.

Vui nhất là sau giờ làm việc buổi chiều. Bác thường cùng anh em trong cơ quan đánh bóng chuyền. Bác già, tay cứng nên búng bóng yếu, “đối phương” muốn gỡ điểm, thường phát bóng vào chỗ Bác, Bác liền nói to:

A, “truy tủ” hả. Bác vừa nói vừa nhảy lên đỡ bóng.

Có lần đối phương phát bóng “ác” quá, Bác biết không đỡ được, liền kêu:

Trường, Kỳ, Kháng, Chiến đâu? Cứu bóng! Người đánh lẫn người xem cười vui vẻ.

Bây giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi.

Biết được điều đó, Bác liền gọi đến. Bác hỏi, tôi trả lời Bác:

Dạ, thưa Bác, cháu muốn được công tác ạ.

Thế cháu muốn công tác thật tốt không?

Có ạ.

Có muốn phục vụ nhân dân được không?

Có ạ.

Thế thì phải đi học. Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được.

Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn:

Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu.

Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói:

Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thiêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những điều đó.

Tôi sang nước bạn ở khu học xá, rồi vào trường sư phạm. Tốt nghiệp xong, tôi về nước, dạy học ở Việt Bắc cho đến ngày chiến thắng thực dân Pháp, tôi mới về thủ đô.

* Ý nghĩa câu chuyện:

Qua câu chuyện Bác luôn nhắc nhở dù cho hoàn cảnh khó khăn, phải vươn lên tự học để nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật làm chủ chính bản thân mình.

Muốn làm được việc đó vai trò người phụ nữ gánh trọng trách rất quan trọng phải xóa đi cái tâm lý tự ti, phải có ý thức tự cường, tự lập, ý chí vươn lên, sắp xếp khéo léo, vun vén gia đình, để vừa giỏi việc nước, đảm việc nhà, hoàn thành nhiệm vụ được phân công.

* Bài học kinh nghiệm:

Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng ra sức học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, chính trị, trao dồi đạo đức cách mạng.

Dù trong hoàn cảnh khó khăn nào thì cũng phải sắp xếp cố gắng vươn lên tự học tập, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ hiểu biết để phục vụ nhân dân được tốt hơn, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó.

Nguồn: Phụ nữ Trà Vinh